Chuyện xảy ra đã lâu, song tôi vẫn nhớ như một kỷ  niệm khó quên. Tôi bị áp-xe, cánh tay sưng, người bị sốt, phải vào nằm  Bệnh viện Việt - Xô. Tôi nằm ở khu B, không ngờ lại trùng với căn phòng  của nhạc sĩ Văn Cao. Hồi ấy lẽ ra ông có thể ở khu A, đúng với tài năng  và vị trí của ông, nhưng không hiểu sao ông vẫn nằm ở khu B. Giường ông  gần cửa ra vào, còn tôi nằm ở một góc sâu cuối phòng. Bác sĩ khám và bảo  tôi phải tiêm kháng sinh loại nặng, nếu không thì phải mổ. Tôi nằm im  thiêm thiếp ngủ, khi tỉnh dậy cánh tay lại đau nhức.
Tôi để ý thấy nhạc sĩ Văn Cao thỉnh thoảng lại ngồi dậy tiếp khách.  Người vào thăm ông đông. Ông nói chuyện vui vẻ. Tôi không hiểu ông bị  bệnh gì. Bác sĩ trực phòng thỉnh thoảng vẫn ngồi nói chuyện với ông vui  vẻ và ca ngợi tài năng của ông. Dưới chân giường của bệnh nhân Văn Cao  là một dãy dài các chai rượu uống đã hết. Bác sĩ nhìn các chai rượu và  bảo: "Xin cụ bớt uống rượu cho thì bệnh mới mau lành, mới mau khỏi".  Nhạc sĩ Văn Cao cười, nói: "Tôi không có rượu có thể bệnh lại tăng thêm.  Tôi quen với nó rồi, xin bác sĩ thông cảm".
Vào một buổi gần trưa, tôi đang thiu thiu ngủ thì nghe một tiếng gọi:  "Ông Đức cũng nằm đây à?". Tôi mở mắt thì thấy anh Văn Tâm, bạn học  cùng lớp. Anh Văn Tâm vào thăm nhạc sĩ Văn Cao và trông thấy tôi. Anh  hỏi: "Ông bị bệnh gì?". Tôi nói: "Tôi bị sốt, bị áp-xe tay". Nhạc sĩ Văn  Cao hỏi vọng: "Đứa nào đấy?". Văn Tâm trả lời: "Ông Hà Minh Đức". Ông  Văn Cao nói tiếp: "Phục binh à? Sao không xưng danh?". Tôi nói: "Có danh  gì mà xưng đâu bác".
Buổi đầu tiếp xúc là như thế, nhưng sau một vài ngày ở cùng phòng,  tôi được nghe nhiều câu chuyện thú vị của nhạc sĩ. Mỗi ngày bà Văn Cao  vào thăm và chăm sóc chồng một, hai lần. Tuy đã đứng tuổi, bà vẫn giữ  được vẻ đẹp của thời con gái, dáng vẻ sang trọng của cô gái Hà Nội. Bà  chăm sóc ông tỉ mỉ, thay áo cho ông. Thân hình ông gầy gò, bộ ngực lép  nhưng đôi mắt vẫn sắc sảo, khuôn mặt mang những nét tiềm ẩn của một tài  năng. Bà chăm cho ông ăn, dặn dò kỹ lưỡng, lúc ra về lại nói: "Anh bớt  uống rượu, chiều em lại vào".
Câu chuyện đầu tiên ông kể về bà là chuyện bà tham gia Tuần lễ Vàng:  "Dạo ấy, Cách mạng Tháng Tám thành công, tôi là vệ quốc quân, đầu đội mũ  calô, quân phục giản dị mà gọn gàng, còn cô ấy là con một nhà tư sản  giàu có ở Hà Nội. Chúng tôi yêu nhau, cũng không biết cô ấy yêu tôi vì  lẽ gì. Tôi không phải là người đẹp trai nhưng có chút tài hoa, và sâu xa  hơn là hai người hòa hợp về tính tình.
Vào một buổi sáng chủ nhật, Hà Nội tổ chức Tuần lễ Vàng, tôi rủ cô đi  dự Tuần lễ Vàng và nhắc khẽ: Chúng mình tham dự và cũng có đóng góp nhỏ  cho đất nước. Chúng tôi đi đến Nhà hát Lớn và đến gần nơi tổ chức buổi  lễ. Bàn thờ Tổ quốc trang trọng, thềm bước lên chỗ để hòm quyên tặng  trải thảm đỏ. Đứng lặng yên một lúc, tôi bảo: Mời em lên đi. Cô bước  từng bước nhẹ nhàng và khi gần đến nơi thì quay xuống nhìn tôi như biết  có người theo dõi. Cô khẽ nâng hai cánh tay lên và kéo nhẹ những vòng  xuyến vàng đeo ở hai tay rồi bỏ vào hòm quyên góp. Ngừng một lát cô lại  tiếp tục đưa tay lên cổ mở nhẹ và lấy chiếc dây chuyền bỏ vào hòm công  đức rồi lẳng lặng đi xuống.
Tôi nắm tay cô, nói khẽ: Cảm ơn em. Rồi  chúng tôi ra về. Trải qua  nhiều năm tháng chung sống, gia đình êm ấm, tình yêu càng đằm thắm. Tôi  nghĩ không có gì hạnh phúc bằng một gia đình với tình yêu đằm thắm của  vợ chồng. Phải chăng đó cũng là một nguồn tạo cho tôi nhiều cảm xúc và  cảm hứng trong sáng tạo. Gia đình cũng là nơi bảo vệ, chống đỡ với những  ảnh hưởng xấu ở bên ngoài… Đời tôi bên cạnh những vận may cũng có nhiều  chuyện không hay vướng vào mình khiến phải bận tâm và nhiều khi bực  bội. 
Bước vào những năm xây dựng CNXH, rồi những năm Đổi mới, có ý kiến  cho rằng: Bản Quốc ca do tôi sáng tác có nhiều điểm trùng lặp với bài  Quốc tế ca và Quốc ca của Pháp. Cần phải có một bản Quốc ca mới cho hợp  với giai đoạn mới của đất nước XHCN. Dạo ấy có hẳn một phong trào thi  nhau làm Quốc ca mới. Tôi cũng mong ước nếu có được một Quốc ca mới thì  đó là niềm vui của cả mọi người. Nhưng nếu nêu lý do Quốc ca cũ ảnh  hưởng Quốc tế ca và Quốc ca Pháp thì tôi hoàn toàn bác bỏ.
Thực ra các bài nhạc loại hành khúc thường giông giống nhau về điệp  khúc vì điệu nhạc. Tôi làm Quốc ca là dựa trên sức mạnh của đất nước,  của dân tộc, đoàn quân Việt dù khó khăn vẫn vượt qua trong khúc Khải  hoàn ca. Có thể một vài chữ hơi mạnh mẽ quá, gắn với không khí quyết  liệt của thời điểm lịch sử, còn nhìn chung, về nhạc đó là một ca khúc  thanh bình, một ca khúc chiến thắng".
Nghe lời ông nói, tôi nghĩ đến thời điểm rộn ràng không khí thay đổi  Quốc ca. Nhiều bài Quốc ca mới được đăng báo, được trình diễn nhưng  không được dư luận chấp nhận. Ở Trường Đại học Tổng hợp cũng có Giáo sư  Đỗ Văn Khang say mê sáng tác Quốc ca và luyện tập cho con cái, nhưng bài  hát cũng không được chấp nhận. Ông nói với tôi: "Tôi đưa cho nhạc sĩ  Nguyễn Đình Tấn xem hộ. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn bảo nhạc yếu còn lời  hay. Tôi ví Việt Nam như một con tàu trên Thái Bình Dương, một hành lang  đón gió nhìn ra biển chào đón gió bốn phương".
Tôi hoan nghênh nhiệt tình của Giáo sư. Ở Việt Nam, bất cứ hiện tượng  gì hấp dẫn dễ thành phong trào. Làm Quốc ca là khó, hết sức khó, phải  có tài, có thời điểm được quần chúng ủng hộ. Giáo sư làm Quốc ca cũng là  hưởng ứng phong trào. Quốc ca là linh hồn của một dân tộc, thường gắn  với một thời điểm lịch sử có ý nghĩa.
Mỗi dân tộc đều có một Quốc ca và có thể có nhiều Quốc ca qua những  chặng đường dài của lịch sử. Trên thế giới có bao nhiêu dân tộc thì có  bấy nhiêu Quốc kỳ, Quốc ca. Có những Quốc ca nổi tiếng như Quốc ca  Xôviết, Quốc ca Pháp, Quốc ca Trung Quốc. Điều quan trọng là nhân dân  yêu mến và Quốc ca đã thấm sâu vào đời sống của dân tộc. "Tiến quân ca"  của Văn Cao gắn với Cách mạng Tháng Tám, với nền độc lập của dân tộc sau  hàng trăm năm nô lệ. Âm thanh lời hát đã trở nên hết sức quen thuộc.  Cuối cùng thì mọi nẻo đường đi lại trở về chỗ cũ, bản của nhạc sĩ Văn  Cao mang tính lịch sử và đã gây ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn mọi  người. Văn Cao - nhạc sĩ tài hoa lại vui mừng trước sự khẳng định giá  trị của sáng tác để đời của mình.
Nhạc sĩ Văn Cao nói tiếp: "Tôi là tác giả Quốc ca, bao nhiêu năm tôi  phải giữ gìn, dù sao tên tuổi mình cũng đã gắn với một cái gì của đất  nước, tuy nhỏ bé nhưng thiêng liêng. Ông cũng biết đấy, dân nhạc tài hoa  thường anh nào trong đời chẳng có ba bốn cô xinh đẹp vây quanh. Còn  tôi, tôi phải giữ gìn, giữ gìn vì tên tuổi mình phải trong sạch, hai nữa  với gia đình, phải xứng đáng với người vợ của mình".
Từ đấy tôi không có lý do, không có điều kiện để được gặp lại ông  nhưng trên truyền hình và báo chí, tên tuổi và tài năng của ông ngày  càng được đề cao, tôn vinh. Văn Cao là một trong những người mở đầu cho  nhạc cách mạng. Ông có nhiều bài hát lãng mạn, mang mơ ước của một thời.  Những mơ ước lành mạnh đó bắt gặp cách mạng trở thành những nhạc khúc  vừa có sức mạnh, niềm tin, vừa bay bổng, tạo nên nhiều giá trị to lớn.  Bên cạnh những bài hát mang không khí hùng tráng của một thời, nhạc của  Văn Cao cũng rất đằm thắm với tuổi trẻ, với mùa xuân như "Mùa xuân đầu  tiên".
Văn Cao cũng là nhà thơ tài hoa với nhiều bài thơ độc đáo mang phong  cách riêng. Ông cũng là một họa sĩ với những bức tranh gây ấn tượng. Tôi  có duyên may được ông trình bày cho bìa sách cuốn "Nam Cao, nhà văn  hiện thực xuất sắc" do Nhà xuất bản Văn hóa in năm 1961. Bìa giản dị,  đẹp, chữ sang trọng.
Anh Văn Tâm có lần khoe với tôi chân dung được Văn Cao vẽ tặng. Tôi  nói với anh: "Các bậc tài hoa này nếu bớt đi tửu lượng thì có thể tài  năng phát triển nhiều hơn chăng?". Anh lắc đầu: "Ông không hiểu rồi,  những bài thơ hay nhất của Hoàng Trung Thông là viết trong lúc say. Đời  say cho thơ thêm hay. Rượu tạo nên một sự lung linh đưa người nghệ sĩ ra  khỏi cuộc đời thường và đến với những nẻo đường mơ hồ, lãng mạn với  những phút thăng hoa". Tôi không nói gì thêm và nghĩ đến Văn Cao với  chút kỷ niệm nhỏ về ông
Hà Minh Đức (cand.com)
Nguồn quehuongonline.vn
http://quehuongonline.vn/van-hoc-nghe-thuat/nhac-si-van-cao-va-chuyen-ke-ben-giuong-benh-20160112153542687.htm