| 
 
 Ảnh nguồn Internet Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí  Minh đọc lời kêu gọi: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không  chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Sau chín năm trường kỳ  kháng chiến vô cùng gian khổ, được tiếp sức từ truyền thống đánh giặc  của cha ông, dân tộc ta một lần nữa đã vượt qua mọi thử thách đưa cuộc  kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi vẻ vang: “Chín năm làm một Điện  Biên/Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”.  Sự kiện này đã làm chấn động  cả trái đất, ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử của dân tộc. Nó  chứng tỏ: “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày  trước” (Lời Hồ Chủ tịch).                                                                                        Cuộc kháng chiến vĩ đại ấy  của dân tộc dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng chính là nguồn đề tài,  nguồn cảm hứng vô tận của nền văn học mới nhằm thực hiện nhiệm vụ chính  trị, cổ vũ chiến đấu “Nay ở trong thơ nên có thép/Nhà thơ cũng phải biết  xung phong”. Nó hướng tới quần chúng và phục vụ quần chúng đông đảo.  Công, nông, binh trở thành nhân vật trung tâm của nền văn học mới. Văn  học kháng chiến, với những thành tựu đáng kể, sẽ có vị trí xứng đáng  trong lịch sử văn học dân tộc. Chúng ta có quyền tự hào về văn học kháng  chiến, đặc biệt là thơ ca kháng chiến. Nó là một thành tựu nổi bật, đã  khắc họa khá thành công hình ảnh anh bộ đội - lực lượng nòng cốt của  cuộc kháng chiến. Tìm hiểu những vần thơ viết về anh bộ đội cũng là một  cách tìm về nguồn cội để tri ân những người con của dân tộc đã chiến  đấu, đã hy sinh, đã đổ máu, đã hiến dâng tính mạng vì tương lai của Tổ  quốc, vì cuộc sống của chúng ta hôm nay, và mai sau.
 Chủ thể sáng  tạo của thơ ca kháng chiến chính là các nhà thơ. Hầu hết các nhà thơ lớp  trước, từng nổi tiếng trong phong trào “Thơ mới” đều đi theo cách mạng,  đi theo kháng chiến. Đây là một bước chuyển. Không phải chuyển ba lô,  mà chuyển tư tường, là chuyện đổi đời, là chuyện lột xác, là thay đổi  cách sống, cách sinh hoạt, tác phong… Bởi vậy, những năm đầu của cuộc  kháng chiến chưa có thơ. Có người nói, đây là thời kỳ “tìm đường”, “nhận  đường” của văn nghệ sỹ. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 1948, đồng  chí Trường Chinh đọc bản báo cáo quan trọng: “Chủ nghĩa Mác và vấn đề  văn hóa Việt Nam”. Tiếp đến là những đợt đi thực tế của văn nghệ sĩ để  “kháng chiến hóa văn hóa” và “quần chúng hóa sinh hoạt”. Từ đó thơ ca  kháng chiến bắt đầu khởi sắc. Các nhà thơ lớp trước bắt đầu tìm được  hướng đi mới, họ đã tiếp xúc và gần gũi với quần chúng đông đảo. Bên  cạnh những nhà thơ lớp trước, nhiều gương mặt mới xuất hiện đầy triển  vọng, đầy hứa hẹn như Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Hoàng Trung Thông,  Trần Hữu Thung, Chính Hữu, Hồng Nguyên, Vũ Cao… Trong số họ, nếu không  phải là nhà thơ quân đội như Quang Dũng, Hoàng Cầm, Chính Hữu thì họ  cũng lăn lộn ngoài mặt trận, tham gia chiến dịch như Nguyễn Đình Thi, Tố  Hữu… Giữa nhà thơ và anh bộ đội hầu như không còn có sự ngăn cách, họ  gần gũi với nhau biết bao:
 Ai biết trưa nay giữa bụi bờ
 Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ
 Tôi ngồi không ngủ nghe anh thở
 Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ
 (Lên Tây Bắc- Tố Hữu)
 Là cán bộ cách mạng, họ đồng thời là nhà thơ. Là nhà thơ, họ không thể  có thơ nếu họ xa rời cuộc kháng chiến. Vì vậy: “Anh đi tìm giặc, tôi tìm  anh/Người lính trường chinh áo mỏng manh”. Tố Hữu đã theo anh bộ đội đi  đánh giặc, “lên Tây Bắc”, theo anh vác voi ra trận, theo anh suốt chặng  đường gian lao cho đến ngày cùng anh mừng chiến thắng: “Hoan hô chiến  sĩ Điện Biên”:
 Trông bốn mặt lũy hầm sụp đổ
 Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
 Tố Hữu thuộc nhà thơ lớp trước, nhưng không thuộc phong trào Thơ mới.  Trước cách mạng tháng Tám, ông là nhà thơ cách mạng tiên phong. Sau cách  mạng, ông vẫn giữ nguyên vị trí ấy. Ông thuộc một trong số ít nhà thơ  cho ra đời những bài thơ khá thành công ngay từ những ngày đầu của cuộc  kháng chiến như: Cá nước, Lên Tây Bắc, Bầm ơi, Bà bủ, Lượm…
 Thơ viết  về anh bộ đội có nội dung khá phong phú. Trước hết, các nhà thơ đều  muốn cắt nghĩa nguồn gốc xuất thân của anh bộ đội, coi đó là tiền đề của  một nhân cách cao đẹp. Nhà thơ Chính Hữu viết về họ: “Quê hương anh  nước mặn đồng chua/Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Họ ra đi từ mái  tranh nghèo. Tình cảm của họ luôn hướng tới nơi chôn rau cắt rốn của  mình, nơi có giếng nước, gốc đa:
 Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
 Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
 Trần Hữu Thung thì viết về anh nông dân ôm “chiếc xắc mây” lên đường đi  tòng quân, vẫn không quên dặn vợ: “Ruộng mình quên cày xáo/Nên lúa chín  không đều/Nhớ lấy để mùa sau/ Nhà cố làm cho tốt”. Trước đây, trong bài  “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nguyễn Đình Chiểu đã cắt nghĩa lòng yêu  nước, tinh thần xả thân vì nước luôn gắn liền với bản chất giai cấp và  dựng được một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa quân trong sự  nghiệp giải phóng dân tộc: “Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa  xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm  cho mã tà ma ní hồn kinh”. Các nhà thơ ngày nay vẫn tiếp tục khẳng định  điều đó, nhưng những câu thơ hiện đại vẫn có sức lay động trái tim người  đọc. Trong bài “Nhớ”, Hồng Nguyên viết: “Lũ chúng tôi/Bọn người tứ  xứ/Gặp nhau hồi chưa biết chữ/Quen nhau từ buổi một hai/Súng bắn chưa  quen/Quân sự mươi bài/Lòng vẫn cười vui kháng chiến”. Nhấn mạnh nguồn  gốc nông dân là nhấn mạnh bản chất giai cấp, bản chất cách mạng nhưng  đồng thời cũng nhấn mạnh điều kiện khó khăn trong chiến đấu. Một người  lính “chưa biết chữ”, “súng bắn chưa quen” mà vẫn “cười vui kháng  chiến”, dám đương đầu với một kẻ địch có vũ khí tối tân, với một đội  quân được đào tạo chính quy, hiện đại. Thảng hoặc cũng có nhà thơ như  Quang Dũng nói nguồn gốc xuất thân của người lính từ một hướng khác. Đó  là học sinh, là trí thức. Những thanh niên Hà Thành hào hoa thanh lịch.  Họ là những người có học, ít nhiều chịu ảnh hưởng sách vở. Họ rất lãng  mạn, rất mơ mộng, nhưng luôn đeo đuổi giấc mộng anh hùng, đã ra đi là  không trở lại như Kinh Kha, như những tráng sĩ ngày xưa:
 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
 Có một thời gian khá lâu, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng bị bỏ quên.  Người ta cho rằng, tác giả đã gán ghép cái buồn rớt, mộng rớt, cái chất  tiểu tư sản cho người lính, phản ánh sai lạc bản chất anh bộ đội cụ Hồ.  Lối cảm nhận văn học bị ý thức hệ chi phối ấy dần dần thay đổi. Ngay  lập tức bài thơ “Tây Tiến” được đưa vào giảng dạy trong chương trình  trung học phổ thông tương xứng với giá trị của nó. Chỉ riêng về nguồn  gốc xuất thân của người lính, nhà thơ Quang Dũng đã góp thêm một tiếng  nói khẳng định: Đây là cuộc kháng chiến của toàn dân. Người lính ngoài  mặt trận thuộc bất kỳ một tầng lớp nào, giai cấp nào trong xã hội, họ có  thể ra đi từ đồng ruộng, nhà máy, cơ quan, trường học, kể cả văn nghệ  sĩ. Khi đã đứng trong một chiến hào thì họ cùng chung một lý tưởng đánh  giặc cứu nước.
 Anh đi bộ đội sao trên mũ
 Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
 Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
 Bốn mùa thơm mãi cách hoa thơm
 Đó là thơ của nhà thơ Vũ Cao trong bài thơ “Núi đôi” mà hầu như ai cũng  thuộc. Có thể nói, thơ ca kháng chiến đã dành những vần thơ đẹp nhất,  hùng tráng nhất để ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh của anh bộ đội.  Nhà thơ Thôi Hữu trong bài “Lên Cấm Sơn” đã viết về họ: “Họ vẫn gầy vẫn  ốm/Mắt vẫn lõm da vàng/Áo chăn chưa đủ ấm/Ăn uống vẫn tồi tàn”.
 Bài Thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu thì viết:  “Áo anh rách vai/Quần tôi có vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá/Chân không  giày/Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những câu thơ mộc mạc, chân quê,  mà lay động lòng người. Cũng viết về cái gian khổ hy sinh của người  lính, nhà thơ Quang Dũng lại sử dụng một bút pháp khác: bút pháp lãng  mạn tạo nên những câu thơ thật ám ảnh:
 
           Ảnh nguồn Internet-Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
 Heo hút cồn mây súng ngửi trời
 -Chiều chiều oai linh thác gầm thét
 Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
 Đành rằng địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến là núi non hiểm  trở, rừng thiêng nước độc nhưng nếu không có óc tưởng tượng phong phú,  bay bổng thì Quang Dũng không thể tạo ra được những câu thơ như khắc  chạm vào tâm khảm của người đọc như vậy. Môi trường như thế tránh sao  khỏi những tật bệnh, chết chóc: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân  xanh màu lá dữ oai hùm” hoặc “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/Chiến trường  đi chẳng tiếc đời xanh/Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên  khúc độc hành”. Nét làm nên sự khác biệt với rất nhiều nhà thơ khác là ở  chỗ Quang Dũng không hề né tránh khi nói về gian khổ, mất mát, chết  chóc. Nhà thơ coi đó như một điểm tựa để làm nổi bật phẩm chất anh hùng  của người lính. Đọc những câu thơ trên, người đọc bị cuốn hút bởi khẩu  khí anh hùng diễn tả một trang hảo hán khác lạ “không mọc tóc” chứ đâu  phải bị sốt rét trọc đầu! Ông cũng đã từng tâm sự: “Có chăng là cái hào  khí một thời của dân tộc. Những chàng trai Hà Nội sẵn sàng ra đi, sẵn  sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của mình”. Mặt khác nhà thơ nhìn và nói  về cái chết với một vẻ tôn nghiêm, sang trọng. Không phải ngẫu nhiên,  nhà thơ dùng một loạt từ ngữ Hán Việt: Biên cương,viễn xứ, áo bào… Chính  những từ ngữ Hán Việt này đã làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm, sang trọng  cho những nấm mồ chiến sĩ vùi lấp nơi rừng hoang lạnh lẽo. Cái chết của  các anh như có sự an ủi vỗ về. Cái chết của các anh không chỉ rung động  trái tim con người mà còn động thấu cả đất trời đến mức “Sông Mã gầm lên  khúc độc hành” để tiễn đưa người chiến sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng.  Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Bài thơ mang phẩm chất anh hùng ngay  trong nỗi buồn”. Phẩm chất anh hùng ấy còn được nhà thơ Hồng Nguyên diễn  tả trong những vần thơ dồn dập, chắc nịch: “Lột sắt đường tàu/Rèn thêm  dao kiếm/Áo vải chân không/Đi lùng giặc đánh”. Và nhà thơ Tố Hữu trong  những vần thơ phóng khoáng, giàu cảm xúc và rất chân thực:
 Năm mươi sáu ngày đêm
 Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
 Máu trộn bùn non
 Gan không núng, chí không mòn
 Những đồng chí thân chôn làm giá súng
 Đầu bịt lỗ châu mai
 Băng mình qua núi thép gai
 Ào ào vũ bão…
 Đây nữa, Nguyễn Đình Thi đã có những vần thơ đẹp nhất, vừa hiện thực,  vừa lãng mạn, rất cụ thể, chi tiết, đồng thời có giá trị tổng hợp khái  quát cao tạo nên một bức tranh hoành tráng như nền gấm thêu chỉ vàng,  trông thật lộng lẫy:
 Súng nổ rung trời giận dữ
 Người lên như nước vỡ bờ
 Nước Việt Nam từ máu lửa
 Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
 Bên cạnh anh bộ đội là các em thiếu nhi “Thư đề thượng khẩn/Sợ chi hiểm  ngheo/Vụt qua mặt trận/Đạn bay vèo vèo”, là bà bầm, bà bủ, bà mẹ Việt  Bắc, là cô lái đò: “Ai lên bến Trấm thì lên/Về cho sớm sớm, mưa đêm khó  chèo”. Tất cả những hình ảnh đó đều thể hiện một cách sinh động chủ  nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng tiêu biểu hơn cả,  kết tinh cao độ hơn cả truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm của  dân tộc trong suốt 4.000 năm lịch sử chính là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ.
 Thật là thiếu sót không nhỏ khi viết về người lính mà không đả động đến  đời sống tình cảm của họ.
 Mối tình đồng chí,  đồng đội là một nét đẹp trong tâm hồn của người lính.  Nhà thơ Chính Hữu  hiểu rất rõ điều đó khi ông viết bài thơ “Đồng chí”: “Súng bên súng đầu  sát bên đầu/Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Là người lính, áo  quần chưa đủ ấm, lại còn rách rưới nữa “Áo anh rách vai”, “quần tôi có  vài mảnh vá”, nhưng họ thương nhau lắm, tình người của họ đậm đà lắm  “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Vượt lên tất cả mọi thử thách, họ vẫn  vui vẻ, lạc quan:
 Đêm nay rừng hoang sương muối
 Đứng cạnh bên nhau, chờ giặc tới
 Đầu súng trăng treo!
 Nhà thơ Hoàng Trung Thông viết về tình quân dân, tình cá nước với những  vần thơ thật đầm ấm vui tươi: “Các anh về mái ấm nhà vui/Tiếng hát câu  cười/Rộn ràng xóm nhỏ/Các anh về tưng bừng trước ngõ/Lớp lớp đàn em hớn  hở theo sau”:
 Mẹ già bịn rịn áo nâu
 Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
 Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, người lính luôn tâm niệm,  luôn tạc dạ ghi lòng: “đi dân nhớ, ở dân thương”. Hồ Vi là nhà thơ không  viết nhiều, nhưng đã để lại dấu ấn khá đậm trong lòng người đọc với bài  thơ: “Lời quê”. Đó là bài thơ mộc mạc chân quê, có sức lay động tâm hồn  bởi tình người ấm áp:
 Mấy bữa ni rồi trời thiếu nắng
 Chừng chưa bưa lụt nước còn cao
 Khi hôm bộ đội hành quân tới
 Trấn thủ dầm phơi chật cả sào
  Chị ơi đem dụi ra ngoài ruộngKiếm ít dam, cua chút của đồng
 Thêm đôi ba miếng anh em đỡ
 Của nhà quê kiểng buổi thu đông
  Bớ anh nội vụ khoan đi chợXa ngái đàng trơn bấm cực chân
 Xuồng bên chị Mót buôn tơi nón
 Anh nhảy mà đi được đỡ chừng
  Thương anh nỏ có cầu anh mạnhAnh nện thằng Tây bể sọ dừa
 Thương anh cơ khổ mà nghèo quá
 Thiếu rơm lót ổ lạnh lùng khuya.
 Một điều đáng lưu ý là do hoàn cảnh lịch sử, nền văn học mới nói chung,  thơ ca kháng chiến nói riêng thường đề cập đến những tình cảm lớn lao  như tình yêu nước, tình quân dân, tình đồng đội… mà ít đề cập đến tình  cảm riêng tư cũng là điều dễ hiểu. Thảng hoặc, thấy xuất hiện đôi câu  trong một bài thơ dài. Ta nhặt được hai câu trong bài thơ “Đất nước” của  Nguyễn Đình Thi:
 Những đêm dài hành quân nung nấu
 Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
 “Núi đôi” của nhà thơ Vũ Cao là trường hợp hiếm hoi ít thấy khi bài thơ  đề cập đến tình yêu lứa đôi một cách trọn vẹn từ đầu đến cuối. Nhưng  đây là một bi kịch tình yêu. Cuối cùng nó cũng hướng tới khêu gợi lòng  căm thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu. Mối tình đẹp đẽ là thế: “Bảy năm về  trước anh mười bảy/Em mới đôi mươi trẻ nhất làng/Xuân Dục, Đoài Đông hai  cánh lúa/Bữa thì em tới bữa anh sang”. Nhưng kẻ thù đã giày xéo quê  hương gây nên tang tóc đau thương:
 Mới đến đầu ao tin sét đánh
 Giặc giết em rồi dưới gốc thông
 Cái chết của người con gái cũng là mối tình đẹp đẽ nhất như tiếp thêm  sức mạnh cho người con trai đi tiếp chặng đường của mình để thực hiện lý  tưởng vì độc lập dân tộc:
 Anh đi bộ đội sao trên mũ
 Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
 Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
 Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
 Ở thời đại nào cũng vậy, văn học chân chính không bao giờ tách rời cuộc  sống.Thơ ca kháng chiến cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nó xuất hiện  ngay từ đầu cuộc kháng chiến. Nó theo anh bộ đội, theo chị dân công đi  khắp mọi nẻo đường, mọi chiến dịch cho đến ngày giành được thắng lợi vẻ  vang.
 Anh bộ đội từ cuộc đời đi vào thơ ca, rồi từ thơ ca lại bước  ra cuộc đời. Nó góp phần động viên cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân hăng say  chiến đấu để làm nên “một Điện Biên chấn động địa cầu”.
 Những bài  thơ thành công viết về anh bộ đội không phải là ít. Hy vọng nó sẽ sống  mãi với thời gian, sống mãi trong lòng bạn đọc. Lịch sử văn học dân tộc  sẽ dành cho nó một vị trí xứng đáng.
 |