| (Đọc “Giữa thanh thiên bạch nhật” NXB Văn Học 2009                                          của nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng) 
  
 Tác giả bài viết (bìa phải) cùng Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng (đứng bên cạnh) Nguyễn Huy Hoàng viết: “Cái đang có trong tay/là những gì rất  thực/Niềm hy vọng ngày mai/mãi mãi còn phía trước…Nghĩa là điều không  thực/Chỉ là giấc mơ thôi” (Năm tháng rồi sẽ qua đi)Không  hiểu sao, những câu thơ trần trụi, không cảm xúc, không màu mè, đậm chất  chính luận ấy lại hút hồn tôi, tiếp cho tôi sức mạnh để đọc một lèo hết  cả tập thơ gần 90 bài. Thú thật, ở cái tuổi ngoài 70 như tôi, không mấy  ai còn hào hứng đọc sách nữa. Người ta liệt tôi vào loại hâm. Hâm cũng  được, chả sao cả. Nhờ hâm mà tôi đọc hết tập thơ: “Giữa thanh thiên bạch  nhật” của Nguyễn Huy Hoàng do NXB Văn Học ấn hành năm 2009. Vừa đọc,  vừa ghi chép, suy ngẫm.
 Phải từng trải lắm và cũng phải gan  lì nữa, Huy Hoàng mới viết được những câu thơ như rút ra từ gan ruột của  mình: “Thẳng ngay không chút màu mè/Bình tâm trước cả bốn bề sóng  xô/Cầm lòng lấy đói làm no/Lấy chua làm ngọt đổi ngờ làm tin/Thiệt thua  nhận hết về mình/Khiêm cung gói một chữ tình vào tâm”(Nợ Đời). Vẫn chất  chính luận ấy mà có sức ám ảnh, lay động người đọc về một nhân cách sống  đáng trân trọng. Nói ra sự thật, nói thẳng thắn những điều mình nghĩ  thật chẳng dễ dàng gì. Thổ dân Úc từng nói: "Nhìn vào sự thật sẽ mù  mắt". Còn Hán ngữ có câu: "Trung ngôn nghịch nhĩ". Dân ta thì nhắc nhở  nhau: "Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng". Nhà thơ Huy Hoàng chủ  trương làm thơ là phải tôn trọng sự thật. Phải chăng đây là tuyên ngôn  thơ của anh.
 Khi tuổi còn trẻ, Huy Hoàng đã từng yêu và cũng lãng mạn lắm chứ. Ai đang yêu mà chả mơ mộng:
 …Cúc tần che lối rào thưa
 Bao lần xao xuyến tôi chờ em qua
 Thoáng tà áo trắng xa xa
 Nơi em gieo bước đấy là cõi tiên
 Mỗi khi em ngước mắt nhìn
 Hồn tôi lạc lối giữa nghìn vì sao.    (Chắc em chẳng biết được đâu)
 Ở thôn quê Việt Nam là vậy. Ở một làng bên sông Oka tận bên Nga cũng  thế thôi. Tuổi trẻ trao nụ hôn đầu cho nhau thường diễn ra trong một  không gian đẹp, mờ ảo, thơ mộng của thiên nhiên hết sức lãng mạn:
 Mé bờ sông bãi sậy lặng như tờ
 Hơi khói tỏa, nước phủ mờ man mác
 Bên gốc liễu có hai người vẫn thức
 Tiếng thì thào như hơi thở canh khuya.
  Đêm sắp tàn đã đến lúc chia lySương thấm lạnh, cỏ vườn hoang ướt đẫm
 Người con gái run sau làn áo mỏng
 Trao chàng trai lữ thứ nụ hôn đầu.     (Đêm ở một làng bên sông Oka).
 Chẳng cứ gì yêu mới mộng mơ, lãng mạn. Huy Hoàng đã từng viết:
 Tôi chỉ mơ về những cánh chim
 Về biển cả, về núi rừng xa tắp
 Còn cây cỏ những loài hoa gần nhất
 Đất dưới chân sao tôi cứ hửng hờ.     (Trước lúc đi xa)
 Có một thời Tố Hữu ru người đọc bằng những câu thơ lãng mạn, bay bổng,  mà ai cũng tin vào điều đó như tin một điều có thật để nuôi hy vọng:
 Đã nghe nước chảy lên non
 Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
 Đã nghe gió ngày mai thổi lại
 Đã nghe hồn thời đại bay cao
 Núi rừng có điện thay sao
 Nông thôn có máy làm trâu thay người…
 (Ba mươi năm đời ta có Đảng)
 Ai cũng bảo, đó là lãng mạn cách mạng, lãng mạn tích cực. Nó hoàn toàn  đối lập với lãng mạn tiêu cực, không lành mạnh của văn học lãng mạn theo  ý thức hệ tư sản “Là thi sỹ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và vớ  vẩn cùng mây” (Xuân Diệu). Ở đây, người sáng tác có niềm tin ngây thơ là  thế và người đọc cũng không được quyền hiểu khác. Đó là định hướng tiếp  cận văn hoc của một ý thức hệ mà bất cứ người nào cũng phải nghe theo.  Huy Hoàng của thế kỷ XXI cũng có những câu thơ giống hệt như thế nhất là  cái khẩu khi, giọng điệu:
 Mai ngày rồi sẽ rạng danh
 Bao nhiêu dự án trong tầm khả thi
 Phía Nam cầu vượt Việt Trì
 Sân gôn hoành tráng Ba Vì, Sóc Sơn
 Nhà ga ngự tận bản mường
 Hồ Tây rồi sẽ có đường thủy cung
 Sông Tô thay nước xanh dòng
 Tàu trên không lướt giữa đồng Phùng Khoang
 Ngất trời cao ốc Keang Nam
 Sông Hồng sẽ tựa Nam Hàn, Xơ Un…       (Biết rồi)
 Có điều khác với Tố Hữu, Huy Hoàng còn viết thêm hai câu:
 Nghe ra mừng thiệt là mừng
 Biết rồi mà vẫn tưởng chừng trong mơ.
 Chỉ hai câu thôi, nhưng cách nhìn thế giới đã khác hẳn, nó giúp người  đọc có cách hiểu khác và giọng điệu ở đây cũng khác, không còn mang tính  trữ tình thuần túy nữa mà nó đã lấn sang giọng điệu hài hước – trữ  tình. Hài hước ngay ở cái tiêu đề bài thơ; "Biết rồi". Nó nhại lại một  câu nói của một nhân vật (cụ cố Hồng) trong “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng:  "Biết rồi khổ lắm nói mãi". Đây sẽ là giọng điệu xuyên suốt tập thơ và  tạo thành một nét cá tính phong cách trong sáng tạo nghệ thuật của nhà  thơ Huy Hoàng. Trước những đổi thay kiểu “Sông lấp” đã đem đến cho con  người tâm trạng xót xa, hoài cổ, tiếc nuối cái đẹp trong quá khứ, trong  tâm tưởng “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi  đò”. Nhà thơ trào phúng Tú Xương đã từng có giọng điệu hài hước - trữ  tình như thế. Huy Hoàng đã chịu ảnh hưởng, kế thừa và phát huy nó lên ở  mức độ cao hơn và lặp đi lặp lại nhiều lần trong tập thơ như một điểm  nhấn.
 Người ta kể về nàng, về người yêu ngày xưa của mình như một  thông báo về sự thật khách quan, không thêm, không bớt "Người ta kể, mới  gặp nàng tuần trước", "Vẫn dịu dàng và quyến rũ như xưa", rằng "nàng  hoàn toàn mãn nguyện": "Chồng quan to con du học bên Tây/Có biệt thự  ngay giữa lòng phố cổ/Thuộc vào hàng quyền quý của thời nay". Chàng trai  không hề ngạc nhiên về điều đó, không oán trách nàng lấy một câu, trái  lại chỉ mừng cho nàng thôi. Bây giờ nàng có chồng như thế, con như thế,  nhà cửa như thế. Chả cần học hành nhiều vẫn có thể xếp vào hàng quyền  quý có cuộc sống vương giả. Chàng trai liên hệ đến mình bỗng nhận ra một  sự thật đáng sợ cho nàng mà cũng thật hài hước, xót xa cho một nhân  cách:
 Nếu thuở ấy đắm chìm vào sách vở
 Nếu dại rồ, nàng gắn với đời tôi
 Thì giờ đây dưới mái nhà cấp bốn
 Mắt trũng sâu, tóc tổ quạ rối bời!
  Chắc con cái chỉ học hành dang dởChạy xe ôm, hoặc phó mộc, phu hồ
 Với ông chồng lưng thưỡn dài tốn vải
 Vẫn chi hồ giả dã, sống như mơ.
  Hãy cảm ơn cơn cuồng phong số phậnĐã hất nàng ra khỏi cuộc đời tôi
 Người ta kể, người xưa, nàng có hỏi
 -Vẫn làm thơ, lay lắt sống xứ người.    (Người ta kể)
   Giọng điêu hài hước - trữ tình đã bắt đầu hé lộ, gây sự chú ý cho bạn  đọc ngay ở những bài thơ đầu tiên của tập thơ. "Nỗi niềm quê cũ" là bài  thơ nỗi niềm, đầy ắp tâm trạng. Nó hướng tới một vẻ đẹp văn hóa làng xã  tồn tại lâu đời trong lòng người dân Việt nay không còn nữa. Một thực  trạng trớ trêu đang phơi bày trước mắt, thật đáng lên án, nguyền rủa.  Nhà thơ chọn cho mình một cách thể hiện phù hợp. Đó là giọng hài hước -  trữ tình:Cây đa trăm tuổi trơ cành
 Sân đình quy hoạch xây thành chợ phiên
 Nhà lầu ngất ngưởng mọc lên
 Bóng che đổ xuống vách phên liếp gầy
 Đồng khô lác đác thợ cày
 Quán bia, chiếu bạc suốt ngày, thâu đêm
 Hỏi tìm mấy bạn đồng niên
 Khai hoang dạt tận Tây Nguyên hồi nào...
  Đi quanh xóm cũ một vòngRối bời trăm mảnh tơ lòng cố hương      (Nỗi niềm quê cũ)
 "Đáng buồn" là bài thơ đẫm chất chính luận, nhưng không hề khô khan, có  chất khái quát, triết lý cao và đặc biệt phảng phất giọng điệu hài  hước. Khi đọc tập thơ: "Giữa thanh thiên bạch nhật", tôi đã dừng lại rất  lâu ở bài thơ này:
 Đáng buồn là những việc đáng buồn
 Mà không ai buồn cả
 Đáng buồn là những việc đáng vui
 Mà không ai vui cả
  Đáng buồn khi người ta cố tình lãng quênNhững việc lẽ ra phải ghi vào cốt tủy
  Đáng buồn khi phế tích đã chôn vùiLại đánh bóng, sơn son, tô vẽ
  Đáng buồn khi người ta bỏ ngoài taiNhững lời ruột gan, chân thật
 Đáng buồn khi phải nói thầm thì
 Về những nỗi đớn đau, phẫn uất
  Đáng buồn là khi những việc đáng loMà vắng bóng người cầm cân, nẩy mực
 Đáng buồn là trước hố sâu, miệng vực
 Mà bao người vẫn nhắm mắt thờ ơ.      (Đáng buồn)
 Nó thuộc phong cách thể hiện "không màu mè",trần trụi, giản dị, dễ  hiểu. Điều đáng nói là tác giả có óc quan sát tinh tế, phát hiện điều  trái tự nhiên thật hài hước, dí dỏm. Ngồi một mình đọc, suy ngẫm, chiêm  nghiệm những gì mình đã trải qua mới cảm thấy thú vị. Tôi cứ mỉm cười  một mình khi đọc bài thơ này. Bài thơ gồm năm khổ tất cả. Đứng đầu mỗi  khổ thơ là từ "Đáng buồn". Điệp khúc này ngân lên và kéo dài mãi cái âm  hưởng của nó. Phải chăng đây cũng là âm hưởng chủ đạo trong thơ của Huy  Hoàng. Nhìn vào đâu viết về cái gì cũng chỉ thấy buồn mà thôi. Theo tôi,  hai câu thơ gieo vào lòng người nỗi buồn dai dẳng nhất, thấm thía nhất  chính là:
 Đáng buồn khi phải nói thầm thì
 Về những nỗi đớn đau, phẫn uất.
 Thậm chí không dám nói ra. Phải chờ đến ngày tận thế mới dám thổ lộ với em yêu thế này:
 Nếu mai sẽ là ngày tận thế
 Đến lúc này anh mới nói cùng em
 Niềm thầm kín nằm sâu trong đáy ngực
 Giam hồn anh như ngục tối gông xiềng.     (Nếu mai sẽ là ngày tận thế).
 Tôi cũng võ vẽ làm thơ. Cái tạng của tôi cũng vậy, ít có những bài kiểu  tụng ca, náo nhiệt. Hầu như bài nào cũng buồn. Tôi có quan niệm hơi cực  đoan: "Buồn là chất thơ đích thực". Cũng có người khuyên không nên viết  thơ buồn làm người khác buồn lây. Tôi cũng đang thử sức:
 Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần
 Ước chi viết đực những vần thơ vui.
 (Tản mạn về mùa Thu –Huy Phương)
 Buồn là một mô típ được đề cập khá nhiều trong thơ trước cách mạng giai  đoạn (1930 - 1945). Nhà thơ Xuân Diệu đã từng khẳng định:
 Hôm nay trời nhẹ lên cao
 Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
 Đó là cái buồn vẩn vơ, cái buồn của cả một thế hệ khi đã tiếp thu được  luồng sinh khí mới của Tây học, khi đã ý thức được một cách rõ ràng về  quyền sống, quyền làm người, quyền tự do. Suy cho cùng đó là cái buồn  bắt nguồn từ cuộc sống nô lệ, bị giam hãm trong ngục tối gông xiềng. Cái  buồn trong thơ Huy Hoàng cũng vậy thôi, nó bắt nguồn từ một thực trạng  đáng buồn.  Huy Hoàng viết:
 Hai mươi bảy triệu người Nga đã chết
 Trong cuộc chiến tranh cả nhân loại căm hờn
 Và giờ đây giữa thanh thiên bạch nhật
 Kẻ giết người, thói phát xít vẫn nhơn nhơn.    (Giữa thanh thiên bạch nhật)
 Đó là thơ của một người từng trải đã vượt qua tầm nhìn dân tộc hẹp hòi để vươn tới tầm khái quát, tầm nhân loại, tầm triết học.
 Vẫn cách nhìn ấy khi Huy Hoàng cảm nhận về trái đất:
 Nhiều năm tháng tôi từng suy ngẫm
 Mọi vật sinh ra, tồn tại, sẽ lụi tàn
 Đến ngay cả cuộc đời ta cũng vậy
 Rồi cũng già, bệnh tật, giã trần gian
  Và tôi bỗng thương vô cùng trái đấtPhải đối mặt bao hiểm họa khôn lường
 Phải còng lưng trên mình thêm gánh nặng
 Thế kỷ này nhan nhản lũ bất lương!         (Trái đất đáng thương)
 Càng đi nhiều, càng thấy nhiều càng buồn nhiều. Càng đọc nhiều càng  biết nhiều càng buồn thêm. Từ lúc mười tuổi, Huy Hoàng đã đọc cổ thư  Trung Hoa, bây giơ trên đầu tóc đã bạc trắng, vẫn còn đọc và nhận ra  rằng:
 Những trang sách say sưa khi mười tuổi
 Lúc này đây, đọc lại bỗng kinh hoàng
 Tam Quốc Chí, Đông Chu, Thủy Hử
 Kiệt Trụ, Tần Ngô, Hán Sở tranh hùng…
  Năm ngàn năm liệu bây giờ có khácCổ thư còn soi tỏ được hay chăng?      (Đọc lại cổ thư Trung Hoa)
 Nhìn rộng ra không gian, nhìn sâu vào thời gian buồn đã đành. Thu hẹp  lại càng buồn hơn. Nhất là khi đối diện với chính bản thân mình: "Giật  mình, mình lại thương mình xót xa". Bây giờ mình là thế. Không còn trẻ  trai nữa mà đang đần dần lão hóa, ít ngủ, nhớ nhớ, quên quên, hay nghĩ  miên man, hay thở dài, thích hoài cổ, chớm lẫn rồi, bạn bè ngày càng  thưa dần, thỉnh thoảng xóa tên một người trong sổ. Nhịp điệu uể oải, tâm  trạng buồn chán, ý rời rạc:
 Hay giật mình nhớ điều bất chợt
 Đêm dằng dai ngủ rồi lại thức
 Nằm miên man nghĩ ngợi miên man
 Càng tính toán lại càng thấy mất
  Gặp người quen mà tên chẳng nhớThích chuyện trò, thở dài, hoài cổ
 Thỉnh thoảng rưng rưng nghe tin buồn
 Xóa tên một người trong quyển sổ.         (Càng ngày)
          Huy Hoàng quan niệm thơ phải mang tính chân thật, không được hùa  theo cái xấu, cái ác, cái lỗi thời, mặt khác thơ chính là "người bạn  đồng hành của những người thứ dân trong tâm tưởng". Huy Hoàng tâm sự:  "Tôi dễ trải lòng trước những cảnh đời, những số phận bị vùi dập và nỗi  lầm than". Điều này cũng dễ hiểu. Bởi tác giả sinh ra trong một gia đình  nghèo của một vùng quê nghèo thuộc làng Trường Lưu, Can Lộc, Hà Tĩnh.  Đó cũng là nơi sinh ra một nhà thơ lớn Nguyễn Huy Tự, tác giả Hoa Tiên  sống cùng thời với Nguyễn Du. Điều này chỉ cần đọc thơ của Huy Hoàng  cũng dễ dàng nhận ra. Dù có đi tới phương trời nào, hình bóng quê hương  vẫn luôn ở trong tim. Tình cảm quê hương bao giờ cũng căng như sợi dây  đàn, hễ đụng tới là nó bật lên thành tiếng. Với Huy Hoàng "Chùm hoa dâm  bụt" là một biểu tượng thiêng liêng. Bất chợt nhìn thấy chùm hoa này tại  một khách sạn ở Volga trên đất nước Nga xa xôi, Huy Hoàng xúc động, cảm  xúc dâng trào và bóng dáng quê hương từ trong tim lại hiện ra như khắc  như chạm vào thơ:  Lặng ngắm hoa dâm bụt nởNhư nhìn cô bạn đồng hương
 Ngàn dặm quê người lưu lạc
 Lẻ loi thân gái dặm trường
  Nhớ trưa mặt trời chói changNhớ cơn mưa rào chợt đổ
 Bốn mùa hoa dâm bụt đỏ
 Thảm hoa trải trước sân nhà
  Xa rồi khói thơm bếp rạRặng tre đưa võng trong vườn
 Xa rồi cây rơm đầu ngõ
 Đàn gà mới nở vàng ươm.      (Chùm hoa dâm bụt)
 "Mẹ sinh tôi giữa tháng ba" là bài thơ viết về môt cảnh đời rất mực  thương tâm, lại là bài thơ nói về chính bản thân tác giả khi còn trứng  nước:
 Thiếu ăn, đói lả mắt mờ
 Mẹ mất sữa lay lắt nhờ cháo rau
 Khoai riềng, củ chuối, củ nâu
 Nước hồ gạn lấy, uống vào cầm hơi
 Ngày dài, nồi cháo cứ vơi
 Xót xa liệu có thành người hay không?   (Mẹ sinh tôi giữa tháng ba)
 Rồi đứa trẻ ấy lớn dần lên, vượt qua mọi chông gai, thử thách để lại  trên mình bao nhiêu là vết sẹo. Những vết sẹo ngoài da. Những vết sẹo  trong tim:
 Vết thất vọng tuổi thơ
 Vết mộng mơ sụp đổ
 Vết âm thầm lầm lỡ
 Vết đau đớn khôn nguôi
  Vết ân hận suốt đờiNhững đêm dài rỉ máu...
 Lồng ngực tôi vẫn dấu
 Sự bầm dập tháng năm.    (Những vết sẹo)
 Khi có tâm trạng hoang mang trước cuộc sống, người ta thường tìm đến tâm linh. Đọc lá số tử vi tìm thấy một chút an ủi:
 Chỉ vượng cung Nô Bộc
 Lắm bè bạn quan to
 Sao Thái Âm đắc địa
 Biết võ vẽ làm thơ.    (Tử vi)
 Biết làm thơ và trở thành nhà thơ (Hội viên Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt  Nam) càng biết chia sẻ, cảm thông hơn với đồng loại. Hình bóng cô thợ  may lao động cật lực ở xứ người thật tội nghiệp: "Mỗi năm là mười hai  tháng/Mỗi tháng là ba mươi ngày/Mỗi ngày làm mười sáu tiếng/Rã rời thân  xác, chân tay". Còn đây là nỗi lo của người nghèo khi tết đến:
 Con cái đứa đang cuối cấp
 Đứa không tìm được việc làm
 Đứa lớn lên rừng với bố
 Nhập đoàn phu mỏ đào than
  Tiền đâu sắm sanh lễ cúng?Tiền đâu con nộp học thêm?
 Tiền đâu gối mùa thóc giống?
 Tiền đâu áo xống, thuốc men?
  Trăm thứ đổ dồn vào tếtGia tài bồ thóc trơ hom
 Mai ra chợ người tìm việc
 Kiếm thêm bát cháo, bát cơm!       (Đêm nằm lo tết đến)
 Còn hết tết thì sao? "Đám nhà quê ngóng việc làm dài cổ/Ngồi bất thần,  giống hệt các nhà thơ". Một câu thơ được viết ra bằng giọng điệu hài  hước - trữ tình làm người đọc cười ra nước mắt!
 "Lên chùa thăm chị"  là bài thơ giàu tâm trạng, bạn chỉ cần đọc lên, nếu ai mủi lòng dễ rưng  rưng nước mắt. Đó là người chị từng tại ngũ mười ba năm. Khi phục viên  về với gia đình, tuổi xuân đã hết, mang trong mình bệnh sốt rét rừng, ốm  yếu tiều tụy. Hình ảnh người chị sừng sững trước mắt:
 Môi thâm da đen xạm
 Tháng vào viện mấy lần
 Chẳng khác gì bà lão
 Mùa hạ vẫn trùm chăn
 Khi mẹ đã già, em út thành gia thất, "Chị tìm lên chùa lánh/Nương thân  chốn cửa thiền/Sớm khuya lo kinh kệ/Khói hương quên tháng ngày/Áo nâu  sồng, guốc mộc/Bè bạn với cỏ cây". Người em mới chân ướt chân ráo về  nhà, mẹ đã giục lên chùa thăm chị. Mẹ cứ dặn đi, dặn lại: "Dù là chị, là  em/Đã xuất gia, xuống tóc/Phải gọi Thầy, đừng quên". Lên chùa gặp chị,  người em chỉ còn biết nghẹn ngào, không nói được nên lời:
 Trong lòng tôi là chị
 Trước mắt tôi, sư Thầy
 Chấp hai tay vái lạy
 Mà nghẹn ngào: em đây!
 Dễ động lòng trắc ẩn, đó là phẩm chất đầu tiên của một nhà thơ đích  thực. Ở Huy Hoàng, nét phẩm chất đó luôn thường trực và nổi trội. Không  nhất thiết là người thân thích, ruột thịt của mình. Có khi chỉ là những  nấm mồ không hương khói ở tận Căm pu chia: "Trên những cánh đồng Bát Tam  Boong, Xiêm Riệp/Bao nấm mồ không có một nén hương". Có khi chỉ là  những nhân vật trong sách:
 Như bị thôi miên, tôi thẩn thơ suy tưởng
 Quầy sách cũ rêu phong mấy thế kỷ qua rồi
 Từng có mặt trong bao pho tiểu thuyết
 Những nhân vật vô hình ám ảnh suốt đời tôi.
  Như thấy dáng Huy Gô đang đứng lặngVị chân tiên thương xót mỗi kiếp người
 Con búp bê nằm yên quầy tủ kính
 Tuổi thơ khóc bao lần, Cô Dét của tôi ơi!
  Tiếng cựa quậy chàng ngữ lâm vui nhộnTrên tháp chuông thấp thoáng bóng anh Gù
 Buổi học cuối cùng
 Trong lòng tôi sống lại
 Quầy sách cũ
 bảo tàng
 Hồn nước Pháp ngàn xưa.       (Quán sách ở Pa Ri)
 Nhưng xúc động hơn cả, để lại nhiều dấu ấn hơn cả là bài thơ  cuối tập thơ "Trời còn để có hôm nay" viết về chính cuộc đời của tác giả  - chủ thể trữ tình. Ngay cái tiêu đề của bài thơ đã khơi gợi trí tò mò  của người đọc. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là một câu thơ trong truyện  Kiều của Nguyễn Du. Quả nhiên, tôi đã tìm thấy nó:
 Trời còn để có hôm nay
 Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời. (Nguyễn Du).
 Đây là hai câu thơ thuộc loại những câu hay nhất trong truyện Kiều của  Đại thi hào Nguyễn Du, nó đánh dấu một bước ngoặt mới trong cuộc đời của  Thúy Kiều, chấm dứt chặng đường mười lăm năm lưu lạc "hết nạn nọ đến  nạn kia/Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần", đã trải qua những cơn cùng  cực, khổ đau "cát dập, sóng vùi" "mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng  tàn". Thế mà "Trời còn để có hôm nay". Thế là ta vẫn còn sống. May mắn  biết bao. Hạnh phúc biết bao. Ta phải biết trân quý cái ngày hôm nay  chứ. "Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời". Tan sương đầu ngõ, không còn  u ám, không còn bóng tối nữa, ta mới thấy đường, thấy hoa. Vén mây giữa  trời mới lộ rõ trăng. Hoa và trăng bây giờ mới đẹp làm sao. Hoa dường  như tươi hơn. Trăng dường như sáng hơn. "Hoa tàn mà lại thêm tươi/Trăng  tàn mà lại hơn mười rằm xưa". Nói tóm lại Huy Hoàng đã chọn được một câu  thơ hay nhất trong truyện Kiều để làm tiêu đề cho bài thơ của mình chắc  không phải không có dụng ý. Hãy đọc chậm rãi bài thơ này để suy ngẫm,  để thưởng thức cái ý tưởng sâu xa của nó:
 Lở bồi một cuộc bể dâu
 Mười lăm năm ấy, đớn đau đã nhiều
 Dặm xa những núi cùng đèo
 Bụi hồng gió nổi, ráng chiều mưa tuôn
  Phận bèo chìm nổi nước nonSóng vùi, cát dập vẫn còn hôm nay
 Bè lau một khối tình đầy
 Sông sâu may có phúc dày, đức cao
  Sự đời nửa giấc chiêm baoMười lăm năm có ngày nào là vui
 Mịt mù đất khách xa xôi
 Ở đâu góc bể, chân trời quê hương?
  Lẻ loi thân gái dặm trườngNỗi lòng phụ tử, tìm đường về quê
 Vượt ngàn tuyết phủ, mây che
 Thuyền dong một mái, ngựa xe cửa ngoài
  Mai rồi sạch bụi trần aiNguyệt mờ lại tỏ, đào phai lại hồng.      (Trời còn để có hôm nay)
   Về thể loại, đây là bài thơ lục bát nhuần nhuyễn. Tôi có cảm tưởng nó  liền mạch với giọng điệu, âm hưởng cổ kính, trang trọng, mượt mà như  truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Hoặc giả Huy Hoàng đã so dây cùng Nguyễn  Du để viết ra bài thơ như một kiệt tác này. Tôi cho rằng ở tập thơ “Giữa  thanh thiên bạch nhật”, bài thơ này là bài thơ hay nhất. Nhìn rộng ra  thơ của Huy Hoàng, đây là bài thơ vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp sang  tác của anh.Hãy để truyện Kiều bên cạnh để so sánh, đối chiếu, tôi  thấy một điều vô cùng thú vị bài thơ này nằm trong vòng phủ sóng của  truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Khi đề cập đến thân phận của một kiếp  người sóng lòng của Nguyễn Du và sóng lòng của Huy Hoàng dường như rung  lên cùng một tần số. Nguễn Du đã hóa thân vào nhân vật Thúy Kiều để viết  nên những vần thơ thấm đẫm máu và nước mắt. Còn Huy Hoàng thì chiêm  nghiệm bản thân để viết ra chả cần phải hóa thân vào ai cả.
 -Lở bồi một cuộc bể dâu. “Một cuộc bể dâu” là cụm từ của Nguyễn Du: “Trải qua một cuộc bể dâu”.
 -Mười lăm năm ấy đớn đau đã nhiều. “Mười lăm năm ấy” rút từ: “Từ con  lưu lạc quê người/Bèo trôi, sóng vỗ chốc mười lăm năm”, “Những là rày  ước mai ao/Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình” hoặc “Mười lăm năm bấy  nhiêu lần/làm gương cho khách hồng quần thử soi”.
 -Bụi hồng gió nổi,  ráng chiều mưa tuôn. “Bụi hồng”, rút từ “Nàng từ lánh gót vườn  hoa/Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng”. Bụi hồng chỉ bụi bặm giữa  cuộc đời.
 -Phận bèo chìm nổi nước non. Rút từ: “Hoa trôi bèo dạt đã đành/Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi”.
 -Sóng vùi cát dập vẫn còn hôm nay. Rút từ: “Đành thân cát dập, sóng vùi”.
 -Bè lau một khối tình đầy. Rút từ: “Giác Duyên dù nhớ lời nhau/Tiền  Đường thả một bè lau rước người/Trước sau cho vẹn một lời/Duyên ta mà  cũng phúc trời chi không”. Tam Hợp Đạo Cô khuyên ni sư Giác Duyên làm  một chiếc bè lau để đợi vớt Kiều ở song Tiền Đường. Kiều nhảy xuống sông  tự tử, nhờ có giác Duyên chờ sẵn để cứu vớt nên không chết.
 -Mười lăm năm có ngày nào là vui. Điệp lại câu: “Mười lăm năm ấy đớn đau đã nhiều”.
 -Mịt mù đất khách xa xôi/Ở đâu góc bể, chân trời quê hương? Rút từ: “Từ  đây góc bể, chân trời/Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
 -Lẻ  loi thân gái dặm trường. Câu này dùng lại lần thứ hai. Lần thứ nhất là  trong bài: “Chùm hoa dâm bụt” nói về một loài hoa đặc trưng của vùng  thôn quê Việt Nam lại có mặt tại khách sạn Volga – Nga. Câu này rút từ: “  Canh khuya thân gái dặm trường/
 Phần e đường sá, phần thương dãi dầu. Đó là lúc Kiều trèo tường trốn khỏi Quan Âm Các tại nhà Hoạn Thư.
 Lẻ loi thân gái dặm trường. Nó xuất hiện hai lần trong thơ Huy Hoàng.  Nó không chỉ ám ảnh với tác giả mà nhức nhối cả người đọc, nếu ai hiểu  được tâm trạng của một người cha khi có một đứa con gái (Nguyễn Quỳnh  Nga) còn lưu lạc, chưa biết ở phương trời nào. Thông điệp này có liên  quan đến câu: “Dành cho con gái nguyễn Quỳnh Nga ở phương trời lưu lạc”  xuất hiện ngay đầu tập thơ.
 -Mai rồi sạch bụi trần ai/Nguyệt mờ lại tỏ đào phai lại hồng.Rút từ ý hai câu Kiều:
 Trời còn để có hôm nay
 Sương tan đầu ngõ vén mây giữa trời.
 Bài thơ này lấy chất liệu từ truyện Kiều bao gồm cả thể thơ, giọng  điệu, ngôn từ, hình ảnh, thậm chí bê nguyên xi cả những câu thơ Kiều để  nói về nỗi khổ bị đày ải của một kiếp người, một số phận nhưng kết thúc  không bi lụy vẫn lóe sáng một chút hy vọng dù rất mong manh.
 Sương  đầu ngõ đã tan cho ta thấy đào.Mây giữa trời đã vén lên cho ta thấy  trăng. Không phải đào phai mà đào hồng. Không phải trăng mờ mà trăng tỏ:
 Mai rồi sạch bụi trần ai
 Nguyệt mờ lại tỏ, đào phai lại hồng.
 Niềm hy vọng dù mong manh ấy còn được lặp lại một lần nữa trong bài “Nợ Đời”
 Biết đâu thành bại, dược thua
 Cuộc đời sớm nắng, chiều mưa là thường
 Đạo nhà ăn ở hiền lương
 Gió sương sẽ tạnh, đoạn trường sẽ qua
 Rồi điều rủi hạn phôi pha
 Phúc đâu, phận đấy, con xa lại về… (Nợ đời)
 Cái tạng của nhà thơ Huy Hoàng là thế, ít viết những bài thơ vui. Nhưng  như thế không có nghĩa là không có. Ngay bài thơ đầu tập “Có một Hà Nội  trong tôi” là bài thơ trong trẻo. Hình ảnh, ngôn từ, âm điệu đều trong  trẻo để diễn đạt một tình cảm trong trẻo của nhà thơ đối với một Hà Nội  trong tâm tưởng có phần hơi cổ kính, nhất là những khổ thơ:
 Mãi vẫn còn một Hà Nội trong tôi
 Hơi ấm của mùa xuân, heo may ngày tháng giá
 Mùi bánh nóng ban mai, hương cốm xanh mới giã
 Một bầu trời trong trẻo nắng mùa thu…
  Hà Nội trong tôi, những đôi mắt biết cườiNhững sóng tóc bồng bềnh như biết hát
 Một dáng đi, tà áo dài tha thướt
 Đêm xa nhà lại mơ thấy Hồ Gươm
          Từ tiếng chào, từ ý tứ đoan trangNét thanh lịch, hào hoa người Hà Nội
 Miếng quà ngon, thú ăn chơi, lễ hội
 Phải chắt chiu, thanh lọc tự ngàn đời
  Có gì lạ kỳ đâu, mà lại nhớ khôn nguôiTiếng tàu điện, hoa ngoại thành vào phố
 Quán nhỏ đêm chong đèn, tiếng rao dài ngõ chợ
 Tiếng xôn xao nước vỗ phía sông Hồng… (Có một Hà Nội trong tôi)
 Tiếp nối mạch cảm xúc ấy, thể thoe ấy, “Ngự giữa thiên đường” là bài  thơ có những câu thơ đẹp như những cành hoa tỏa hương thơm. Mặc ai đi  tìm thiên đường ở những chốn Thiên thai xa lạ, nhà thơ Huy Hoàng chỉ  biết có môt “thiên đường ngự giữa trần gian”. Với Huy Hoàng, thiên đường  chính là cuộc sống có thật trên mặt đất, là nơi không ồn ào náo nhiệt  như phường phố mà tĩnh lặng. Ăn uống chỉ “rau dưa”, sinh hoạt “không  đài, ti vi, máy tính/báo không, điện thoại cũng không”, không gian “chỉ  suối, chỉ rừng”. Nơi ấy:
  Ban mai, chim muông gọi cửaGió cây, nắng sớm, hương ngàn
 Bếp lò rực hồng, than đượm
 Thiên đường ngự giữa trần gian.   (Ngự giữa trần gian)
  Đó chính là Thiên đường ngự giữa trần gian!                Đọc thơ Huy Hoàng nên đọc chậm. Bởi vì đó la loại thơ đa  thanh, đa nghĩa. Nó chia sẻ với chúng ta chính những điều mà chúng ta  đang thực sự quan tâm. Đọc thơ Huy Hoàng không hề biết chán, nó lôi cuốn  người đọc bằng những giọng điệu khác nhau khi chính luận, khi thì hài  hước, dí dỏm, khi lại trữ tình khi giản dị, mộc mạc, khi lại cổ kính  thâm trầm. Tùy đối tượng được nói đến để nhà thơ chọn một giọng điệu  thích hợp, một thể thơ thích hợp, có thể là Lục bát, có thể Tự do, hoặc  thể thơ năm chữ, tám chữ… Điều đáng  lưu ý  Huy Hoàng là nhà thơ có bản  lĩnh nghề nghiệp, không ngại va chạm, không hề né tránh trước những vấn  đề xã hội gai góc. Điều đáng tiếc có đôi bài lập ý còn đơn giản, hầu như  ít có bài vui, hầu hết chìm đắm vào một nỗi buồn vô tận. Đọc những vần  thơ sau đây, ta có cảm giác như đang đọc các nhà thơ mới giai đoạn 1930 –  1945, có một chút Phạm Huy Thông, một chút Đoàn Văn Cừ, một chút Anh  Thơ, Chế lan Viên…Không gian như tủ lạnh khổng lồ
 Đồi xơ xác, cánh rừng phong tê tái
 Thung lũng nhuốm một màu trắng muối
 Tuyết ngập đồng, ào ạt gió đài nguyên.
  Dòng sông băng không bóng một con thuyềnDải bờ lạnh để tang ngày băng giá
 Trên quảng trường tượng kiệt nhân tuấn mã
 Tay vung gươm hóa đá giữa đất trời.
  Về phương Nam không còn kịp nữa rồiNhững cánh sếu lạc bầy kêu thảm thiết.
 Đàn chó hoang run xù lông nhá tuyết
 Mắt đỏ ngầu tru giọng đến thê lương.
  Quạ lẻ đàn rũ cánh xếp lặng imNgóng đôi mắt vô hồn về cuối bãi.
 Sau ngọn tháp, phía làng xa, ngọn khói
 Vài tiếng gà nhớ nắng gáy miên man… (Ngày đông giữa làng Nga)
                                    Thành Phố Vinh, Một ngày đầu đông buốt giá. |