|  
 Ảnh minh họa  | 
    
Đã nhá nhem rồi mà sao chúng vẫn lặng lẽ kiếm ăn. Chúng không bay về  tổ. Mặc ô tô, xe máy, xe bò, người đi lại gồng gánh nườm nượp trên  đường. Đó thật là điều lạ. Giống cò tinh lắm. Nó chỉ cần thấy loáng bóng  người cầm súng là lập tức vỗ cánh bay vụt lên ngay. Biết bao nhiêu tay  súng hơi cố bò sát bờ vùng, bờ thửa, nằm ép xuống mặt cỏ nhưng chẳng mấy  khi có dịp bóp cò. Rất nhiều người cầm gậy giương lên giả làm súng xem  chúng có phát hiện được không. Chúng vẫn nghển cổ nhìn, theo dõi từng  động thái nhưng chẳng hề bay. Chỉ đến khi cây gậy vung lên cò mới vỗ  cánh liệng vào nền trời. Thế mới biết, cò phân biệt được đâu là súng,  đâu là nỏ và đâu là những thứ vô hại, dù ai đó cố làm giống súng.
Tôi  dừng lại bên đường. Lòng miên man lách vào nguồn mạch trí nhớ và tâm  tưởng. Không tin được đây là những con cò đi đón cơn mưa giữa bầu trời  tối tăm mù mịt ngày xưa vì một mối tình. Đây là những con cò đậu phải  cành mềm lộn cổ xuống ao. Đây là những con cò lặn lội đồng xình, “Cái  chân đen đủi, cái mình trắng phau”. Đây là những con cò bay ra từ cửa  sổ. Những con cò đã mang câu hát đúm của làng tôi bay về đâu suốt mấy  chục năm trời. Chúng đã mang phường chèo, phường bội của làng tôi bay về  đâu suốt mấy chục năm trời. Chúng đã bay đi từ khi tiếng bom Mỹ nổ xé  đất làng, nổ xé bờ tre làng. Những vườn tre, những vườn luồng um tùm vốn  là nơi lý tưởng cho chim cò làm tổ bỗng tơi tả bởi đạn bom. 
Cò  bay qua cái thời tên những người làng ra trận nhiều hơn tên những người  ở nhà cày cấy. Cò bay qua cái thời hợp tác xã một công được ba lạng  thóc. Đánh kẻng ăn cơm. Đánh kẻng xuống đồng. Đánh kẻng đi họp. Đánh  kẻng ra nhận mỗi khẩu ba lạng thịt tết. Đánh kẻng đến giờ trẻ em học  buổi tối. Đánh kẻng đưa ma. Đánh kẻng lấy rơm lấy rạ. Cò bay qua cái  thời gạch đá, giấy lộn thay tên người xếp hàng từ nửa đêm gà gáy để được  mua mấy cân sắn gạc nai thay gạo, mấy củ xu hào muối thay thịt cá. Cò  bay qua cái thời bình bọt, bốc thăm cả ngày không xong ba người một  chiếc quần đùi, ba người một chiếc áo may ô. Cò bay qua cái thời đồng  ruộng nát như băm bầu. Mỗi suất có khi không lọt một đường bừa. Cò bay  qua cái thời đình làng, nghè làng, phủ làng bị dỡ làm trường, trạm để  lại một khoảng trống tâm linh mà trái tim con người khi nhớ tới cội  nguồn bỗng cảm thấy bơ vơ không bến đậu… Tôi mơ thấy vườn cò Tiến Nông.  Tôi mơ thấy vườn cò ở miền Thái Nguyên, Phú Thọ. Tôi thành ông lão vườn  chim trong những cánh rừng tràm U Minh Thượng, U Minh Hạ, Đồng Tháp, Cà  Mau…qua truyện ngắn, bút ký của nhà văn Anh Đức. Tôi cứ tưởng, cò chỉ  còn trong những câu chuyện cổ tích, chỉ còn thấp thoáng trong những câu  ca dao gạt mưa, gạt nắng bay về.
Thế mà hôm nay, trước mắt tôi  là cò. Hàng nghìn con cò. Không phải tôi mơ. Không phải những cánh cò đã  bay trong lời ru của mẹ. Không phải những cánh cò bay ra từ ca dao tục  ngữ. Những cánh cò trắng muốt đang đứng nhìn tôi, nhìn những người qua  đường trên cái nền lúa con gái vừa qua kỳ lá hẹ, đang uốn lá mây óng  biếc vẽ nên một màu xanh trùng điệp cùng màu xanh thẫm của núi Mố, núi  Rùa, núi Nghễ, núi Mái Điềm. Một cảm giác yên bình quá. Làng quê quá.
Người  ta bảo tốt đất cò đậu. Đất làng tôi nghìn đời vẫn màu mỡ. Nhưng đã một  thời cò vắng bóng. Bao nhiêu thế hệ trẻ làng tôi không còn biết những  buổi chiều hàng trăm nghìn con diều hâu bay lượn trên nền trời, hàng  trăm nghìn con quạ, hàng trăm nghìn con én bay lượn trên nền trời. Dân  làng tôi cứ gọi là diều đắp đê, quạ đắp đê, én đắp đê. Chúng cũng không  còn được nghe tiếng cò chập tối bay về chạo nhau ran cả bờ tre quanh  làng. Bây giờ cò trở lại. Có thể diều hâu, quạ, én và các loài chim khác  cũng sẽ trở về. Chỉ tiếc, làng tôi bây giờ không còn tre luồng nhiều  như trước nữa. Người ta chặt hết cây cao bóng cả để kéo điện về làng.  Dừa bị chặt. Tre luồng bị chặt. Mít, xoài, bưởi đều bị chặt vì chúng  được xếp vào loại cây vườn tạp, kinh tế thấp. Cả làng tôi là một cái  vườn tạp khổng lồ. Tuổi thơ chúng tôi lớn lên trong cái siêu vườn tạp  ấy. Hồn làng chính là cái siêu vườn tạp ấy. Hàng nghìn tổ chim trong cái  siêu vườn tạp ấy. Tất nhiên phải cải tạo lại. Nhưng mọi thứ xảy ra  nhanh quá. Nhanh đến mức tôi tưởng làng cởi trần ra trong mưa trong  nắng. Đường làng chỉ còn có một loại cây duy nhất chen nhau đứng. Đó là  cây cột điện bằng bê tông, mọc trên nền bê tông. Để hòa hợp với thiên  nhiên, để đỡ có cảm giác bị cô đơn, trống trải, bị bóc trần ra trong  nắng, trong mưa, nhiều người làng tôi bắt đầu nghĩ đến chậu hoa cây  cảnh. Nhưng nghệ thuật bon sai lại không phải là nơi cánh cò hạ xuống,  càng không phải là nơi chim cò làm tổ để sinh con đẻ cháu.
Bây  giờ cò trắng đã bay về. Những ngọn núi kia có phải là nơi cò ở lại? Đồng  Lời, khua Đu, khua Nẩn, Cầu Trùng, Cống Máng liệu có giữ được đàn cò ở  lại. Tôi cứ miên man, miên man trước một đàn cò. Có thể ai đó nhầm tôi  với một con cò. Điều đó chẳng sao. Thì tôi đang nhập vào đàn cò, đang  cùng đàn cò trên cánh đồng làng mình, mang ký ức làng từ xa xăm trở về  vào dịp đầu xuân trên nền lúa xanh non đang thì con gái…
Nguyễn Minh Khiêm (vanhoadoisong.vn)
Nguồn quehuongonline.vn
http://quehuongonline.vn/van-hoc-nghe-thuat/co-trang-bay-ve-20160314111808308.htm