Lớp trẻ trong bản cũng được đi học, nhưng chữ đực  chữ cái rơi lổn nhổn như đá cuội dưới khe sâu. Cái lớp học duy nhất của  bản gồm đủ mọi trình độ, mọi lứa tuổi. Thầy giáo là những chiến sĩ biên  phòng thay phiên nhau đến dạy. Có khi trò phải đợi thầy vì thầy cũng  còn nhiệm vụ khác nữa. Có khi thầy đến rồi lại phải đợi trò, vì trò còn  đang mải mê bẻ ngô, trồng sắn trên nương khi đang mùa vụ.
Cả bản chỉ có thằng Khếnh và con Mua là đi học đều. Nhà thằng Khếnh  có của ăn của để, có nhiều đàn ông khỏe mạnh, nên nó không phải lo đến  miếng ăn, chỉ suốt ngày rong chơi, mà chơi mãi cũng chán, nó coi việc  học như một thú chơi, đến đó nó có thể chọc ghẹo đứa này đứa nọ, vỗ vào  cái mông nây nẩy của con Mua. Còn con chữ, nó chả để ý, trừ phi thầy dọa  nếu không học bài, thì thầy đuổi học, là nó sợ.
Khếnh hơn tuổi Mua nhưng học kém hơn Mua, nên trong khi học đôi khi  Mua phải làm cô giáo dạy lại cho thằng Khếnh. Lớp học trứng gà trứng vịt  đó do thầy Kiên biên phòng phụ trách. Thầy dạy đến đâu, còn đâu chúng  tự dạy cho nhau. Với cái Mua, thầy bảo thầy hết chữ rồi, em phải xuống  thị trấn học tiếp. Khếnh không muốn Mua đi, nó ấm ức thầy như ăn cục xôi  nuốt không trôi qua cuống họng. Nó đang mơ đến cái hội xuân sắp tới, nó  sẽ dắt tay con Mua chạy vào rừng, hai đứa ở với nhau một đêm, mặc cho  ông cố nội can ngăn. Vì nó nghe thầy Kiên giảng rồi, thời bây giờ lấy  nhau là do tình yêu, chứ không phải do cha mẹ sắp đặt. Khếnh cãi lại bố  và ông cố nội:
- Tôi thích con Mua, tôi sẽ lấy nó.
- Không được!
-  Sao không được?
-  Vì mày với con Mua là chung một cội.   
    
        
            |  
  Minh họa: Ngô Xuân Khôi | 
    
Ông cố nội Khếnh nằm lẫn trong đống chăn cũ nát, lờ nhờ như một đống  tro bếp, vội nhỏm cái đầu không tóc như cái đầu lâu ho một chặp mới nói  được rồi lại nằm vật xuống như người ta đánh rơi tảng thịt trâu khô treo  gác bếp. Nhưng Khếnh làm sao biết được, tảng thịt khô đã có thời là một  người đàn ông cường tráng, với cơ bắp cuồn cuộn rắn như thân lim, đôi  chân nhanh hơn con  hoẵng, đã từng được dân bản tôn là vua săn hổ của  cái vùng rừng sâu núi thẳm này. Đó chính là A Khun.
Song, cái tiếng đồn về A Khun, một tay săn thiện xạ nhất vùng rừng  sát trời mây này không hiểu theo ngọn gió nào mà bay đến tận nhà quan  tri châu dưới huyện lỵ. Quan Châu muốn chàng săn hổ bán cho nhà quan, để  nhà quan nấu cao. Nhà quan sẽ trả cho A Khun nhiều bạc nén, chăn đệm. A  Khun từ khi cha sinh mẹ đẻ ra tới giờ chưa được trông thấy những thoi  bạc trắng lấp lánh như thác đổ dưới trăng thế này, chàng không dám nhận.  Song chàng không thể không nhận lời vì đây không chỉ là sự trao đổi bán  mua mà còn là mệnh lệnh của quan Châu. Bởi nếu chàng không đáp ứng yêu  cầu của nhà quan thì cả bản Cóm sẽ phải nhận hậu họa. Chàng thì không sợ  nhưng dân bản sợ.
A Khun tiếng là một tay săn sát thú như vậy nhưng chàng chỉ dám mon  men bên ngoài khu rừng thiêng chứ chưa bao giờ dám bước chân vào. Lời  nguyền ấy A Khun vẫn nhớ như in. Nhưng A Khun cũng không dám chống lại  lệnh của nhà quan, lệnh của quan châu là ý trời... Nhiều lần A Khun đã  mon men đến khu rừng thiêng, anh đứng tần ngần trước cửa rừng hồi lâu,  đoán chắc loài hổ dữ chỉ có trú ngụ trong khu rừng rậm rạp thâm u này,  thế nhưng lời nguyền cấm kỵ lại văng vẳng bên tai: Mày sẽ chết, mày phải  chết… khiến A Khun rùng mình chững lại. Màn đêm sập xuống một cách  nhanh chóng khiến A Khun không kịp nhận ra nữa thì tất cả không gian đã  nhuốm một màu khói xám mờ mịt. Khu rừng như chìm trong một màn sương kỳ  ảo và bảng lảng những bóng ma. Người cứng vía như A Khun mà cũng bắt đầu  run, A Khun vội quay đầu ù té chạy về nhưng màn sương dày đặc như bưng  tầm mắt anh và lối về như biến mất. A Khun chỉ còn cách leo lên một cành  cây cao kiếm nơi tá túc qua đêm nơi gần rừng thiêng này. A Khun trải  qua một đêm dài khủng khiếp và nặng nhọc, khi anh nhận ra trên trời hình  như đang sáng dần ra thì cũng là lúc anh phát hiện một mùi hôi thối đặc  trưng của loài hổ. Chắc chắn con hổ đang ở đâu quanh đây, và cùng lúc  ấy là tiếng đập cánh bay rào rào của loài vũ cầm, và tiếng báo động của  các loài thú nhỏ. Loài hổ bước đi thường rất nhẹ nhàng không mấy khi  phát ra tiếng động. Nhưng một cái bóng to lớn đang trườn qua đám cây  dại, khiến A Khun ngờ vực. Đúng là một con hổ rồi, con hổ rất lạ, nó có  màu lông xám trắng, anh ngờ vực như đã nhìn thấy nó ở đâu, thôi đúng rồi  phải chăng nó là con hổ dòng giống của con hổ bạc ngày trước mà anh đã  hạ được. Anh mừng run lên. Con hổ quả thực đã trưởng thành, nó còn to  hơn cả mẹ nó ngày xưa và chắc chắn là trông nhanh nhẹn hơn. Song, bây  giờ A Khun cũng đã có vũ khí lợi hại hơn ngày trước. Con hổ như vừa đi  săn mồi về, nó chỉ kịp bước vào khu rừng thiêng một đoạn là nằm xuống và  lăn ra ngủ như chết, tiếng nó ngáy ưồm ưồm đều đặn, chứng tỏ nó đã ngủ  say. A Khun vẫn ngồi trên cành cây theo dõi. Trời đã bắt đầu sáng rõ,  anh suy nghĩ phải bắn nó một phát thôi là phải trúng tim, không thể để  cho con vật có cơ phản kháng nó sẽ tìm cách tấn công anh ngay. Nhưng vị  trí của anh trên cây không thuận lợi vì xa quá và cũng không thể bắn vào  đúng tim. Nó đang ngủ say, một cơ hội thuận lợi hiếm có phải hành động  không thể chần chừ và cũng không thể để sai sót. Chính vì thế A Khun đã  tụt xuống và tìm một vị trí thích hợp khác.
Mải tìm vị trí mới, A Khun đã bước vào khu rừng thiêng từ lúc nào,  anh mải mê ngắm bắn và đúng như anh đã dự tính. Phát đạn găm vào ngực  con hổ ở một vị trí gần nhất. Con hổ gầm lên một tiếng, máu ộc ra xối xả  và nó từ từ gục xuống khi chưa kịp phát hiện ra kẻ đã kết thúc đời nó.  Con hổ nằm bất động như một tảng đá trắng. A Khun sung sướng nhảy cẫng  lên, anh định vác con hổ về nhưng nặng quá. Phải về bản gọi mọi người ra  khiêng mới được. Cả đêm qua mất ngủ anh đã quá mệt rồi. Con đường về  bản như đi trong mây, bước chân A Khun như không chạm đất, nhưng con  đường cứ dài ra, dài ra mãi như đang đi lên trời. Cho mãi tới khi bóng  chiều ập xuống A Khun mới nhìn thấy thấp thoáng những căn nhà trong bản.
Nhưng lạ quá, sao bản chiều nay lại tĩnh lặng như một khu nhà mồ vậy,  không tiếng trẻ cười đùa trên sân, không tiếng các cô gái giặt giũ, tắm  táp bên những mó nước, không tiếng rít thuốc của người già... Người đầu  tiên nhìn thấy A Khun, mình mẩy đầy máu me đã la toáng lên:
- A Khun đã về rồi dân bản ơi, thế là mày đã trả thù được cho vợ mày rồi phải không?  Xác con hổ ấy đâu?
- Sao mọi người biết tôi…
Chưa kịp nói hết câu thì A Khun nhìn thấy phía nhà mình mọi người  đang xúm lại đông nghịt, và có tiếng khóc như dao dọc nứa của đứa con  trai. A Khun như đờ người, hai con mắt như trật lòng đen ra ngoài khi  nhận ra người vợ xinh đẹp của mình nát bấy không còn rõ mặt người nữa,  thân thể nham nhở những vết cắn xé. Đích thị là đã bị hổ vồ, nhưng nó  chỉ vầy chứ không thèm ăn thịt. A Khun quẳng cây súng và hét một tiếng  vọng đến tận trời xanh rồi gục xuống. Phải mấy ngày sau A Khun mới tỉnh  lại được để nghe dân bản kể rằng: "Vợ mày chờ mãi không thấy mày về, nên  sốt ruột vào rừng tìm kiếm, vợ mày bị hổ vồ ở ngay con suối mà ngày  trước mày giết được con hổ cái bán cho nhà quan đó".
Từ đó A Khun chỉ quanh quẩn với mảnh vườn, con lợn, đàn gà, anh không  đi đâu ra khỏi bản lấy nửa bước chứ nói chi đến vào rừng săn bắn. Vua  săn hổ chỉ còn là kỷ niệm.
*
Thằng Khếnh bỏ học, nó không thèm nói với thầy Kiên một câu, vì sao  nó bỏ nữa, nó chán vì còn động lực đâu để mà đến lớp, con Mua đã được  thầy đưa xuống trường học nội trú dưới huyện rồi. Có lần thầy cũng  khuyên nó: Em phải học cho vững con chữ đi rồi thầy sẽ giới thiệu xuống  trường huyện. Nhưng nó chả thiết, học để làm gì, đi săn con nai con  hoẵng, bắn con chim con thú trong rừng thì đâu cần đến con chữ, nó chỉ  cần lấy được con Mua thôi. Mà sao cả nhà ai cũng ngăn cấm nó. Nó hỏi  riết nên ông nội phải nói: Con Mua cũng là chắt ngoại của cố nội Khếnh,  bà nội nó là em gái ông nội Khếnh. Vậy ra nó với con Mua là cùng một  cội, là anh em họ sao lấy nhau được?
Khếnh chỉ còn niềm vui là vào rừng, tìm niềm vui ở thú săn bắn chim  muông. Khếnh dậy từ gà gáy, dắt nắm cơm, đeo cây súng và dắt bên sườn  con dao quắm, nó lững thững đi vào rừng. Mỗi lần thấy Khếnh chuẩn bị như  vậy, ông cố nội Khếnh lại rên hừ hừ dặn nó đừng đi xa, nhưng Khếnh chả  thèm nghe cái lời của một con ma xó. Nó bước đi hăm hở và đầy hào hứng,  cứ như rừng mới là nơi để nó tung hoành. Khếnh gặp thầy Kiên ngược chiều  với con đường lên núi, trên vai thầy cũng có một cây súng, không cần  hỏi Khếnh cũng thừa biết thầy vừa đi tuần tra về rồi rẽ vào bản dạy luôn  như mọi khi, nhưng Khếnh vẫn thù thầy nên không hỏi. Còn thầy lại tươi  cười chào Khếnh:
 - Khếnh đi săn đấy à, cẩn thận phía đỉnh Tà Khăm mưa đêm qua đường còn trơn lắm đấy.
Nhưng hôm nay Khếnh nổi hứng, nó không đến rừng Tà Khăm mà muốn đi  đến phía rừng thiêng, nơi từ lâu rồi vẫn cuốn hút nó. Nó vẫn thắc mắc  sao dân bản không dám vào rừng thiêng, họ truyền nhau kể những điều thật  ghê rợn nhưng phi lý, nếu vào rừng với một ý thức bảo vệ rừng thì rừng  sẽ che chở chứ không bao giờ làm hại. Nghĩ thế nó mạnh dạn hăm hở tiến  về phía khu rừng vẫn còn chìm trong màn sương dày đặc. Khếnh cứ đi mãi,  đi mãi vào khu rừng như kẻ mộng du cho đến lúc chợt tỉnh ra thì xung  quanh cây cối như đang vây chặt. Phía trên không còn thấy ánh nắng mặt  trời nữa, lá cây đan dày như một chiếc ô khổng lồ, khỉ từng đàn nhảy rào  rào trên các cành cây, ném vào người Khếnh những trái cây rừng chín  nhũn. Khếnh soi la bàn để tìm lối ra, nhưng chưa kịp quay lại thì một  cái đầu bù xù từ trong bụi cây gần đó bỗng hiện ra nhe hàm răng đen xỉn  cười nhăn nhở. Khếnh suýt hét lên, thì bàn tay dài ngoằng của thằng đàn  ông lạ đã bịt chặt lấy miệng Khếnh:
- Đừng sợ, anh bạn trẻ, đừng la lên mà mất mạng đấy.
- Mày là ma à?
 - Không phải ma, tao là người, cũng là người Mông giống mày, nhưng  tao ở phía bên kia rừng thiêng, ở nước láng giềng với nước mày.
Ừ, nó nói đúng, nó cũng nói được tiếng Mông mà.
- Thế tao sắp đi qua rừng thiêng rồi à, nhưng mày ở nước khác sao lại vào rừng thiêng của chúng tao làm gì?
Thằng người Mông nước láng giềng lại cười nhe hàm răng đen xỉn nhày nhụa cặn đồ ăn, nó nói:
- Chúng tao muốn giúp người Mông nước chúng mày được giàu sang sung sướng, mày có muốn giàu có không?
- Giúp thế nào?
 Cái thằng người Mông mặt mũi râu tóc lông lá như người rừng kéo  Khếnh đi phăm phăm khiến Khếnh có cảm tưởng như đang bị ma ám. Khếnh  muốn giằng ra nhưng không nổi. Nó đưa Khếnh đến một căn lều được cất tạm  bợ trong một bụi cây kín mít, bảo đến đó cho an toàn. Thằng người Mông  bảo rằng nó ở đây không phải chỉ một mình mà còn một bọn người nữa nhưng  đang có công việc cả rồi. Nó bảo Khếnh ở lại đây giúp nó làm quen với  người dân bản, để trao đổi hàng hóa. Khếnh gật đầu lia lịa, tưởng gì khó  chứ đưa thằng người Mông này đến làm quen với người dân bản của nó thì  có khó gì.
 - Thế mày cần bản chúng tao bán cho mày cái gì?
 - Trước hết là bán cho chúng tao mật ong, mật gấu, các loại da chồn  báo. Chúng tao sẽ cung cấp cho chúng mày những đồ điện tử như đài, tivi,  quần áo, xe đạp, xe máy.
- Nhưng bản của tao chưa có điện.
- Thì dùng pin, bán cho chúng mày những đồ thưởng thức như rượu  ngoại, thuốc hút, bánh kẹo và các đồ gia dụng rất tiện lợi và đẹp mắt.
Ngày hôm sau Khếnh dẫn người bạn mới quen xuống núi đi về bản Cóm. Nó  dẫn về nhà, chưa kịp giới thiệu thì từ trong góc nhà ông cố nội Khếnh  đã trợn tròn hai cái lòng trắng mắt lên, miệng cứ ú ớ mãi trong cơn ho  khù khụ: "Đi, đi ngay, không được đưa con ma rừng về nhà". Khếnh phủi  tay trấn an người bạn:
- Lão già ma xó ấy mà, đừng lo.
Người bạn Mông bên kia biên giới tên là Lầu A Chá tỏ vẻ khá thân  thiện với con trai trong bản, chỉ có người già là nhìn nó với vẻ không  thân thiện cho lắm. Hắn dạy Khếnh cách dùng điện thoại, cho Khếnh xem  những bức ảnh có các cô gái đẹp như các nàng tiên mà Khếnh thấy nóng  trong người như có lửa đốt. Chá còn hứa đến một lúc nào đó nó sẽ dẫn  Khếnh đến chỗ có những cô gái y như trong ảnh. Nó đi theo A Chá chỉ mỗi  việc giúp A Chá làm quen với con trai các bản, kéo đám con trai đi chơi  và hít một thứ khói trắng mỏng nhẹ như mây bay mà lúc đầu không quen  Khếnh thấy chóng mặt lắm nhưng sau quen rồi thì thấy rất dễ chịu, cứ như  được bồng bềnh trôi trên mây ấy.
Mấy lần về bản nó được nghe thầy Kiên muốn tìm gặp A Khếnh nhưng  Khếnh luôn tránh mặt, nó vẫn còn âm ỉ giữ mối thù với thầy. Thằng A Chá  biết chuyện, nó bày cách để hại thầy giáo nhưng Khếnh cứ ậm ừ, chưa  quyết.
Hôm ấy A Chá dặn Khếnh tối nay phải băng rừng về bên kia để lấy hàng,  nó muốn Khếnh cùng đi để vác đỡ vì hàng nhiều và nặng. Khếnh bảo:
 - Sao phải đi đêm, nhỡ lạc thì sao, hay để tao về lấy ngựa thồ hàng cho đỡ nặng.
- Không được, vì bộ đội Việt Nam không cho bọn tao mang hàng này  sang, vì không muốn cho trai Mông biết hưởng cái sung sướng. Chúng nó  ngăn cấm và bắt nếu ai mang hàng này. Tao biết mày không ưa bộ đội biên  phòng nên tao tin tưởng mày sẽ không báo cho chúng biết.
- Nhưng bộ đội biên phòng vẫn đi tuần đêm ở khu rừng này.
- Tao biết nhưng nó chỉ đi vào lúc tờ mờ sáng thôi, chứ ban đêm nó cũng ngủ mà.
A Khếnh bần thần nhớ lại có lần thầy Kiên có nói: "Tối mai thầy bận  đi tuần, nếu về kịp sáng sớm hôm sau thầy sẽ rẽ về bản dạy các em, cứ  chờ thầy nhé". Nó định kể với A Chá nhưng nghĩ sao nó lại thôi. A Chá  chuẩn bị khá kỹ càng, Khếnh thấy nó dắt con dao nhọn hoắt dài chỉ độ  gang tay, và nhỏ như cái lá nứa vào mạng sườn. A Chá đã khoe và phô diễn  màn phóng dao điệu nghệ của hắn cho Khếnh xem làm Khếnh thích mê tơi và  hắn hứa sẽ dạy Khếnh cách phóng dao trăm phát trăm trúng, thật là hơn  đứt cái tài thiện xạ của Khếnh.
Hai thằng ăn uống thỏa thuê suốt buổi chiều, rồi chờ đến quá nửa đêm,  khi tiếng những con thú đi ăn đêm, tiếng cáo chồn hú gọi bạn tình,  tiếng gà rừng cất tiếng gáy đầu tiên, A Chá và Khếnh mò mẫm lên đường. A  Chá thuộc khu rừng thiêng như lòng bàn tay, đi trong đêm mà mắt nó tinh  hơn con cú mèo. Hai người lầm lũi đi suốt đêm. Khi đến một con suối có  con thác nhỏ với tiếng nước dội ầm ầm xuống vách núi, A Chá dừng lại  bảo: Đây là hết địa phận của nước mày rồi, lội qua bên kia con suối là  nước tao, nhưng chúng ta dừng lại đây, nghe ngóng tình hình, nếu không  thấy bộ đội biên phòng thì tao sẽ lội sang bên kia lấy hàng, mày ở lại  đây làm cảnh giới, nếu mọi việc yên ổn thì mày hú lên ba tiếng theo  tiếng của con vượn nhé.
Khếnh làm theo lời A Chá, nó chẳng thấy có dấu hiệu gì khả nghi, chỉ  có tiếng gọi nhau của bầy thú, tiếng thác nước chảy ào ào, tiếng những  con chim đi ăn đêm về lích chích trên tổ cây. Bỗng nó nghe tiếng hú của A  Chá từ phía núi bên kia suối, nó cũng hú lại ba tiếng để báo sự bình  yên, một lúc nó nhìn thấy A Chá vác một gùi nặng trên lưng đang lấm lét  lội qua con suối. Khi nó vừa lội lên khỏi mặt nước, đặt cái túi xuống  trước mặt Khếnh, thì đột nhiên một tiếng quát dõng dạc vang lên: "A Chá,  mày đã bị bắt".
Khếnh giật mình ngẩng lên thì lạ quá, đó chính là thầy Kiên của nó,  thầy chỉ có một mình và đang giương khẩu súng về phía A Chá. Một thoáng  định thần, A Khếnh chợt nhận ra A Chá không tỏ vẻ sợ hãi mà hắn rất bình  tĩnh, với khuôn mặt không để lộ cảm xúc, nhưng bàn tay hắn đang lần lần  vào thắt lưng. A Khếnh không kịp nghĩ gì cả, nó nhớ tới con dao sắc  nhọn như lá nứa và tài phóng dao thiện xạ của A Chá.
Nhanh như cắt Khếnh đạp tung con dao A Chá vừa kịp rút ra khỏi túi  quần. Con dao trong tay phải của A Chá văng ra, nhưng tay trái của hắn  vẫn kịp rút ra một con dao khác cũng nhanh như cắt đâm phập vào lưng A  Khếnh, khi Khếnh lao lại phía thầy giáo để đẩy thầy tránh né. Một phát  súng nổ như xé toang cả khu rừng vừa tảng sáng, thằng A Chá ôm chân ngã  khuỵu xuống bờ con suối khi hắn định bỏ chạy về phía bên kia biên giới.
A Khếnh chẳng còn nhớ gì nữa, nó cứ nghĩ như thời gian qua nó vừa ngủ  một giấc dài và bị ma rừng thiêng dẫn lối. Khi tỉnh dậy, khuôn mặt nó  nhìn thấy đầu tiên là con Mua. Nó ngơ ngác vì đang nằm ở một nơi rất lạ,  có chăn đệm và toàn một màu trắng toát, nó tưởng nó đã về với trời rồi.  Con Mua nói nó vẫn chưa tin hẳn. Mua bảo: May mà có thầy Kiên tiếp máu,  nó mới được cứu sống, vì đường xuống bệnh viện huyện xa quá. Mua còn mơ  ước sẽ cố gắng học lấy cái nghề chữa bệnh để bản có người ốm hay bị  thương sẽ được cứu chữa ngay.
Người thứ hai nó trông thấy là cha nó, nhưng cha nó đến thăm nó với  gương mặt rầu rĩ để báo tin: Ông cố nội nó mất rồi. Sao lại thế hả cha?  Cha nó bảo cố trước khi đi đã cười tươi, nụ cười mà hàng nửa thế kỷ rồi  ông cất kỹ. Ông còn nói rất rõ: "Thế là ta nhắm mắt được rồi, chắt ta đã  giải được lời nguyền, nó không làm điều ác trong rừng, nó được sống".  Nhưng cố đi mà chưa đồng ý cho con lấy con Mua.
 Mua ngồi bên vội vàng nói luôn:
- Khếnh yên tâm đi, Mua cũng hỏi bà nội rồi, bà bảo hai đứa không chung một cội nào hết.
Cha nó còn cho Khếnh biết, chính cố nội đã báo cho bộ đội biên phòng đi bắt cái thằng A Chá đấy.
Nguyễn Cẩm Hương/ Văn nghệ Công an
Nguồn quehuongonline.vn
http://quehuongonline.vn/van-hoc-nghe-thuat/loi-nguyen-cua-rung-20151113100545221.htm