Nếu không có biển chỉ dẫn, hẳn không nhiều người biết đó chính là cổng  thành Thọ An, một di tích khá ly kỳ với những câu chuyện nhuốm màu huyền  thoại.
Cổng thành Thọ An thuộc căn cứ Tuyền Tung một thời của  nghĩa quân Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân trong phong trào Cần Vương. Theo  nhà nghiên cứu Lê Hồng Khánh, căn cứ Tuyền Tung được xây dựng từ năm  1870 do đích thân tú tài Nguyễn Tự Tân (quê ở xã Bình Phước, huyện Bình  Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) xây dựng.
Căn cứ của phong trào Cần Vương
Lúc  bấy giờ, lợi dụng chính sách khai hoang lập điền của triều đình nhà  Nguyễn, Nguyễn Tự Tân chiêu mộ nông dân yêu nước lên vùng Tuyền Tung  (thôn Thọ An, xã Bình An, H.Bình Sơn bây giờ) lập căn cứ địa, luyện tập  hương binh và chuẩn bị lương thực chiến đấu lâu dài. Thành Thọ An ở căn  cứ Tuyền Tung lập năm 1870, vốn có địa thế hiểm trở vì được núi rừng bao  bọc bốn bên, lại có đường thông với bắc, nam và phía tây. 
Thành  được xây lên bằng đá cuội tròn và đá ong. Bên ngoài có cổng thành, bên  trong có sân rộng, nhà hội họp bàn việc. Cổng thành xây dựng theo lối  vòm, cao khoảng 6m, trên đình vòm cổng đầu hành lang có 4 chốt gỗ tạo  thành hai lớp cửa bên trong và bên ngoài.
Thời gian này, Nguyễn  Tự Tân tổ chức khai thác quặng sắt ở vùng Lò Thổi (xã Bình Khương, huyện  Bình Sơn) để rèn đúc vũ khí mang đi giấu trong núi. Bấy giờ nghĩa quân  cũng liên lạc với các vùng miền núi trong tỉnh Quảng Ngãi và nhân sĩ các  tỉnh Quảng Nam, Bình Định để phối hợp hành động. 
Ngày  13.7.1885, Chánh quản Lê Trung Đình sau khi tiếp chiếu Cần Vương của vua  Hàm Nghi đã tập hợp hương binh và kêu gọi nhân sĩ chống Pháp. Nghĩa  quân cũng yêu cầu Bố chánh Quảng Ngãi là Lê Duy Thụy và quyền Án sát  Nguyễn Văn Dụ cung cấp vũ khí chống Pháp nhưng bị từ chối. Do bị từ chối  nên ngay hôm ấy, 3.000 hương binh từ thành Thọ An chia làm ba mũi tấn  công thành Quảng Ngãi, bắt quan lại, tịch thu ấn tín, kêu gọi hưởng ứng  phong trào Cần Vương kháng Pháp.
Khi chiếm được thành hai ngày  thì đến ngày 16.7.1885, quyền Tiễu phủ sứ Sơn phòng Nghĩa - Định là  Nguyễn Thân cùng Đề đốc Đinh Hội đem quân đánh phá. Phó tướng Nguyễn Tự  Tân chết trận, chánh tướng Lê Trung Đình bị bắt và bị chém ở cửa bắc  thành Quảng Ngãi vào ngày 23.7.1885. Sau đó, Nguyễn Bá Loan mang quân về  lại thành Thọ An tại căn cứ Tuyền Tung tiếp tục kháng Pháp.
Từ  Tuyền Tung và nhiều nơi khác, nghĩa quân Cần Vương hưởng ứng  sôi nổi, rập rập tiến về điểm hội quân tại đền Văn Thánh (Văn  miếu Quảng Ngãi) sau đó theo lệnh Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân  chia làm 3 mũi đánh chiếm thành Quảng Ngãi. Cuộc khởi nghĩa Cần Vương  đầu tiên trong cả nước sau đó bị thất bại do sự hèn nhát của quan quân  triều Nguyễn và sự phản bội của Nguyễn Thân. Chánh tướng Lê Trung Đình  bị bắt, phó tướng Nguyễn Tự Tân hy sinh tại trận tiền.
Cùng với  Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân là người có vai trò quan trọng trong việc  xây dựng cơ sở, lực lượng, mở đầu cho phong trào yêu nước kháng Pháp  liên tục, kiên cường của nhân dân và sĩ phu Quảng Ngãi. Ghi nhớ công ơn  vị quốc vong thân của nhà chí sĩ, sau Cách mạng tháng 8 năm 1945,  trong một thời gian, phủ Bình Sơn đổi thành phủ Nguyễn Tự Tân. Hiện  nay, một con đường lớn ở thành phố Quảng Ngãi và một trường  trung học cơ sở ở huyện Bình Sơn cũng vinh dự mang tên ông.
Chuyện bạch hổ và đôi rắn khổng lồ
Tuy  nhiên, bây giờ Thọ An, căn cứ Tuyền Tung vang dội một thời, nay chỉ còn  cổng thành đã nhuốm màu rêu phong, hư hại rất nhiều. Phía trên cổng  thành, có cây đa mọc phủ lên, còn nhìn từ dưới cổng thành lên trên, vòm  cổng đã bị mưa nắng phá hỏng một lỗ hổng lớn. 
Hai bên tường  thành của cổng cũng trông xơ xác, những công trình bao quanh tường thành  cũng không cò nhiều dấu tích, trông rất hoang phế. Đi sâu vào bên  trong, nhà hội họp, mà dân trong vùng gọi là đình, không còn nữa, chỉ có  nền đá ong viền xung quanh móng ngôi nhà hội họp cũ này.
Ngược  về con đường đến căn cứ Tuyền Tung khoảng 500m, chúng tôi tìm kiếm người  dân địa phương để tìm hiểu thêm về những câu chuyện ly kỳ xung quanh di  tích kháng chiến này. Nhà ở đây còn rải rác, chưa gần nhau lắm, căn nhà  của cụ Hồ Công Biểu, 70 tuổi, là gần thành nhất so với xóm giềng. Tuy  cụ không phải là người bản địa, nhưng những câu chuyện mà chúng tôi muốn  tìm hiểu, cụ nắm rất rõ.
Theo  lời cụ Biểu thì người dân ở đây không gọi là thành, mà gọi là đình, cụ  bảo vào thời chống Mỹ, bom đạn ác liệt của kẻ thù đã làm tan nát các  công trình của đình, lại thêm mưa gió nắng sương nên thành quách càng  thêm xơ xác. 
Về lý do không gọi là thành, mà gọi là đình, cụ  Biểu giải thích: “Nguyên là sau chiến tranh, có nhiều người lập bàn để  thờ cùng, và rất linh thiêng nên mọi người gọi là đình”. Cũng theo cụ  Biểu, chính người dân đảo Lý Sơn, khi đi kinh tế mới ở đây đã lập thờ ở  miếu này, họ thờ cúng rất trang trọng và thành khẩn. Sau đó, dân địa  phương ở đây thấy có nhiều chuyện linh thiêng nên cũng đến cúng vái.
Chị  Nguyễn Thị Thuyền, 36 tuổi, một cư dân Lý Sơn đến đây hồi đi kinh tế  mới rồi ở lại định cư, góp chuyện: “Trước cảnh đình bị hư hại, chúng tôi  muốn sửa sang lắm nhưng “bề trên” không cho phép nên không dám”. 
Rồi  chị Thuyền kể tiếp: “Thành Thọ An linh lắm, ai đi qua phải cúi đầu.  Ngày trước, đàn bà con gái không ai dám qua đây. Còn đàn ông qua đây  phải búi tóc gọn gàng”. Cụ Biểu thêm vào, ngày trước có ông Đồng Thoại  cưỡi ngựa nghênh ngang qua cổng thành mà không xuống ngựa, thế là cả  người và ngựa bị hất văng xuống hồ sen (vốn là hào thành), ông Thoại hộc  máu chết tại chỗ. 
Hồ sen chính là đoạn dòng suối chảy qua phía  trước cổng thành, cách nhau con đường nhựa, nay hồ sen đã không còn và  chỗ đất ấy cũng khô khốc, không còn dấu hiệu gì của ao hồ nữa.
Thế  nhưng chuyện này vẫn chưa kỳ bí bằng những chuyện mà dân làng Thọ An  từng nghe kể. Đó là sau khi nghĩa quân thất bại, thành Thọ An thành  hoang phế, người dân ở đây vẫn nhớ ngày nhớ tháng đến cúng tế, thắp  hương tại đình (nhà hội họp của nghĩa quân). Trong lễ tế này, nhất định  phải có đầu heo lớn để lại, không ai được mang về. Thế nhưng, cứ sau một  đêm là đầu heo mất đi, xung quanh đó có rất nhiều dấu chân hổ. 
Năm  nào không cúng đầu heo, năm đó nhất định dân làng gặp nhiều vụ việc bất  ổn: khi thì đi rừng bị chết, gió bão làm hư hại, gia súc nuôi bị bất  đắc kỳ tử. Thế rồi sau một đêm, lão ông coi đình tên Oánh nằm mơ thấy  một con hổ trắng đến bảo: Ta là bạch hổ coi ngó xứ này. Nay ta giao giấy  tờ trông coi đình lại cho ông rồi từ nay trở đi vào núi tu hành, không  coi đình và xứ này nữa. Từ đó dân làng cúng đầu heo không bị mất như  ngày trước.
Chuyện kể nữa là ngoài bạch hổ thì ngày nào cúng tế ở  đình cũng có hai con rắn to như cột nhà, có mồng đỏ cao hai gang tay,  về nằm khoanh tròn trên hai cái bàn lớn ở bàn thờ trên đình. Có người  cho đó là hai con rồng, bởi thân rắn màu đen tuyền, phát ánh sáng, đầu  ngóng cao, hơi thở phì phò trông rất uy nghi. Thời gian đầu ai cũng sợ,  có điều hai con rắn khổng lồ này không hề hại ai, không hề xâm phạm đến  đồ cúng tế nên dần dần ai cũng quen. 
Khi làng cúng xong, ăn uống  xong, hai con rắn khổng lồ lặng lẽ bò đi đâu mất. Đến khi mái đình ở  đây sụp đổ, hai con rắn không về nữa. Tuy nhiên, ở trước thành Thọ An  khoảng vài cây số, có một cái ao lớn tên Vũng Vàng. Ao này quanh năm  không bao giờ cạn, ai bước chân đến đều thấy khí lạnh tỏa ra mát rượi.  Phía dưới ao có một phiến đá lớn, trưa nào cũng có một con rắn khổng lồ  có mồng đỏ to như con rắn ở đình đến khoanh tròn.
Cụ Biểu kể, có  lần thấy đám cỏ thia bị rạp xuống như ai kéo khúc gỗ nặng đi qua. Có  lần, người ta đi vào núi chặt củi nghe tiếng khò khè như ai đặt máy cưa  cái gì. Tất cả những hiện tượng kiểu này, dân làng ở đây cho đó là rắn  khổng lồ đang ngủ. 
Nói về những câu chuyện ly kỳ, những giai  thoại mà người dân trong vùng đồn thổi quanh căn cứ Tuyền Tung, nhà  nghiên cứu Lê Hồng Khách thẳng thắn: “Giai thoại, huyền thoại luôn đi  cùng với lịch sử, đây là điều dễ hiểu trong đời sống tâm linh của người  dân. Nhiều khi, chính nhờ đời sống tâm linh mà những thứ thuộc về lịch  sử được giữ lại, bởi họ không dám phá đi, đó chính là lý do vì sao mà  cổng thành Thọ An ngày nay vẫn còn”. 
  
					  	
  



                
.jpg)






 (1).gif)






