Trên các bức tượng, phù điêu, họa ảnh… về  Phật giáo ta thường thấy chư Phật, chư Bồ tát, Thánh tăng, tay thường  bắt ấn quyết, đó là những ấn tướng thể hiện những ý nghĩa khác nhau  trong giáo lý đạo Phật. Trong những ấn quyết đó có một ấn quyết được  thực hiện nhiều khi lễ Phật, vái Phật, xá chào… gọi là hiệp chưởng,  nghĩa là hai lòng bàn tay úp vào nhau.
Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Ảnh: Internet 
Sau đây là 16 ý nghĩa của chắp tay:
 
1. Hai bàn tay khép lại biểu thị cho hòa bình, hữu nghị, đoàn kết và  hợp tác, không tranh đấu và không làm tổn thương người khác.
2. Khoảng trống giữa hai lòng bàn tay biểu thị lý chân không, ý nghĩa là chúng ta phải ngộ nhập tính Không của vạn pháp.
3. Hai lòng bàn tay khép lại với nhau biểu thị hai tay chấm dứt vọng  động, không còn phan duyên, không còn tạo nghiệp vì tham, sân, si.
4. Mu bàn tay hướng ra ngoài biểu thị ngoại cảnh lục trần, lòng bàn  tay hướng vào trong biểu thị giác tâm bồ đề, vì vậy chắp tay còn có ý  nghĩa là đi ngược cảnh trần, tìm về giác tâm.
5. Tay phải, tay trái là do vọng tưởng, chấp trước mà có. Kỳ thực  phải hay trái đều là giả danh, đều là hư vọng. Chắp hai tay làm một,  không còn có phải trái, rời tướng phân biệt, bình đẳng nhất như.
6. Mười ngón tay khép lại với nhau biểu thị mười pháp giới quy về  nhất tâm, tất cả đều do tâm tạo, tất cả đều từ tâm mà biến hiện ra.
 
7. Mười ngón tay biểu thị mười phương, chắp lại trước ngực, có nghĩa  là chúng sanh trong mười phương đều bình đẳng, cũng có nghĩa là nhiếp  thủ chúng sanh trong mười phương quy hướng Phật đạo. Mười ngón tay còn  biểu thị cõi Phật trong mười phương, chắp lại trước ngực, có nghĩa là  cúng dường chư Phật, Bồ-tát trong mười phương bằng tâm cung kính, cũng  có nghĩa là nhiếp thủ công đức của cõi Phật trong mười phương để trang  nghiêm tự tâm, thành tựu căn lành.
 
8. Phật tử gặp nhau chắp tay niệm “A Di Đà Phật” chính là quy hướng  biển nguyện nhất thừa của đức Di Đà, bất thoái thành Phật. Cũng biểu thị  cõi Phật mười phương cùng xưng tán A Di Đà Phật, cùng tuyên dương pháp  môn Tịnh Độ.
9. Mười ngón tay chắp lại trước ngực biểu thị chúng ta phải tu mười  ba-la-mật mới có thể thành Phật. Ngoài ra, mười huyền môn Hoa Nghiêm hay  mười nguyện vương Phổ Hiền đều biểu thị sự viên mãn; cho nên, mười ngón  tay chắp lại chính là biểu thị khả năng viên thành Phật quả.
10. Tay trái thường tĩnh, biểu thị “thông hiểu”; tay phải thường  động, biểu thị “thực hành”; hai tay chắp lại biểu thị hiểu và hành hợp  nhất, có như vậy mới thành tựu được vô thượng bồ đề.
11. Tay trái thường tĩnh, biểu thị “tự giác” (tự mình giác ngộ); tay  phải thường động, biểu thị “giác tha” (giúp cho người khác giác ngộ);  hai tay chắp lại biểu thị kết hợp tự giác với giác tha, có như vậy mới  là hành giả Bồ-tát, có như vậy mới được giác hạnh viên mãn.
12. Tay trái biểu thị nguyện, tay phải biểu thị hạnh, hai tay chắp  lại biểu thị nguyện và hạnh hợp nhất, lấy nguyện để khởi hạnh, lấy hạnh  để chứng nguyện, có như vậy đại nguyện mới viên thành.
 
13. Hai tay chắp lại biểu thị các pháp bình đẳng, không phân cao  thấp. Thiền tịnh không hai, tịnh mật chẳng khác, tuy phương pháp bất  đồng, nhưng bản chất giống nhau, cùng chung một mục đích.
 
14. Hai tay trái phải hợp thành một thể biểu thị lý “không hai”.  Phiền não và bồ đề không hai, tự hành và hóa tha không hai, tự Phật và  tha Phật không hai, tánh và tướng không hai…
15. Chắp tay chính giữa ngực biểu thị lý trung đạo, không chấp vào hai bên như: thường hay đoạn, không hay có.
16. Hai tay chắp lại giống như nụ hoa chưa nở, biểu thị nhân địa tu hành. Khi hoa nở cũng là lúc thành tựu bồ đề.